Xác định thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ khi phạm tội mới và tổng hợp hình phạt

Trong thực tiễn hiện nay, việc áp dụng và xác định thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ còn có một số quan điểm, vướng mắc khác nhau, cần được trao đổi để nhận thức thống nhất.

Vào khoảng 22 giờ ngày 21/5/2021, tại quán internet thuộc đường V thị trấn T, huyện M, tỉnh ĐL; Nguyễn Văn A trộm cắp của chị Trần Thị H (chủ quán internet) một chiếc xe môtô Sh trị giá 60.000.000 đồng. Ngày 29/5/2021, cơ quan điều tra Công an huyện M ra quyết định khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn A. Kết quả điều tra còn xác định được, tại bản án hình sự sơ thẩm số 184/2020/hs-st ngày 15/8/2020, Tòa án nhân dân thành phố K đã xử phạt A 15 tháng cải tạo không giam giữ về tội “đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS, thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày 22/9/2020 (ngày Ubnd thị trấn T nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án). Ngày 23/9/2021, Tòa án nhân dân huyện M đưa vụ án ra xét xử và tuyên phạt Nguyễn Văn A 03 năm 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 2 Điều 173 BLHS (quá trình điều tra, truy tố và xét xử A không bị tạm giữ, tạm giam).

Trong vụ án nêu trên, việc xác định thời gian còn lại chưa chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ đối với Nguyễn Văn A, hiện nay có ba quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất: Thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính đến thời điểm A thực hiện hành vi phạm tội mới.

Thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của A được tính từ ngày 22/9/2020 đến ngày 21/5/2021 (ngày mà A phạm tội mới) là 07 tháng, còn phải chấp hành 08 tháng được quy đổi theo quy định để tổng hợp với bản án mới. Vì ngày 21/5/2021, Nguyễn Văn A phạm tội “trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 173 BLHS là tội phạm nghiêm trọng với lỗi cố ý nên từ thời điểm phạm tội mới này sẽ không được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ nữa.

Quan điểm thứ hai: Thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính đến thời điểm a bị khởi tố bị can.

Theo đó, thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của A được tính từ ngày 22/9/2020 đến ngày 29/5/2021 (ngày A bị khởi tố vụ án và khởi tố bị can) là 08 tháng 08 ngày, còn phải chấp hành 06 tháng 22 ngày được quy đổi theo quy định để tổng hợp với bản án mới.

Quan điểm thứ ba và là quan điểm của tác giả: Thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính đến thời điểm Tòa án xét xử về tội phạm mới và tổng hợp hình phạt của hai bản án theo quy định tại Điều 55, Điều 56 BLHS  năm 2015. Nếu người phạm tội bị tạm giữ, tạm giam về hành vi phạm tội mới thì thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính đến thời điểm bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam và thời gian bị tạm giữ, tạm giam đã được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt của tội mới theo quy định của BLHS.

Theo đó, thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của A theo bản án số 184/2020/HS-ST được tính từ ngày 22/9/2020 đến ngày 23/9/2021 là 12 tháng. Thời gian cải tạo không giam giữ còn phải chấp hành là 03 tháng được chuyển thành 01 tháng tù để tổng hợp với hình phạt 03 năm 06 tháng tù của bản án Tòa án nhân dân huyện M xét xử A vào ngày 23/9/2021. Bởi vì, trong thời hạn cải tạo không giam giữ, người đó phạm tội mới, nhưng họ vẫn chấp hành các chế tài (khấu trừ một phần thu nhập hàng tháng, lao động phục vụ cộng đồng) của hình phạt cải tạo không giam giữ, chịu sự giám sát, giáo dục của Ubnd xã, nên chưa chấm dứt việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Khi tuyên án sơ thẩm thì người đó mới bị kết tội, đây mới được coi là mốc cố định để tổng hợp hình phạt.

Trên đây là các quan điểm đối với vụ án, kính mong các độc giả tham gia đóng góp ý kiến.

*Toà án quân sự Quân khu 7

PHẠM VĂN PHƯƠNG*