Yêu cầu khởi kiện của ông VHM không có cơ sở
Sau khi đọc bài viết “Vụ kiện hy hữu về một thửa đất có quy hoạch đường cắt đôi”, của tác giả Thế Mỹ đăng ngày 12/04/2023, theo quan điểm của tôi ông VHM khởi kiện đòi lại phần đất ở giữa là chưa phù hợp.
Căn cứ khoản 2 Điều 184 BLDS thì “Trường hợp có tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được suy đoán là người có quyền. Người có tranh chấp với người chiếm hữu phải chứng minh về việc người chiếm hữu không có quyền”. Viện dẫn quy định trên có thể hiểu: Thứ nhất, nguồn gốc thửa đất có diện tích 1881m2 (tọa lạc tại đường Cách mạng Tháng 8, khu phố 10, thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc – nay là P. Dương Đông, TP Phú Quốc ) do ông M nhận chuyển nhượng từ người khác vào năm 2004, tuy nhiên đến năm 2012 ông M mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 02 thửa còn đoạn giữa thửa đất (diện tích hơn 275m2) thuộc quy hoạch giao thông. Do đó, quyền sử dụng được xác định với 02 thửa trên còn đối với thửa đất ở giữa cơ quan chức năng không cấp cho ông M và ông M không có khiếu nại cho nên mảnh đất giữa vẫn thuộc quyền sử dụng và quản lý của ông M.
Thứ hai, tháng 12/2014 ông M chuyển nhượng cho ông L đối với hai thửa đất được cấp giấy CNQSDĐ. Vì vậy, thời điểm được thực hiện quyền chuyển nhượng của ông VHM được xác định là từ năm 2012 đến 12/2014 khi ông M được cấp Giấy chứng nhận và quyền sử dụng toàn bộ ba thửa đất này được chuyển qua ông L, kể cả mảnh không được cấp giấy chứng nhận.
Thứ ba, sau khi chuyển nhượng ông L đã san ủi mặt bằng toàn bộ thửa đất, cho người thuê để cất nhà cho nhân viên ở. Đồng thời ông L và ông M đã thỏa thuận bằng miệng mua hết tổng diện tích đất của ông M, ông L cung cấp bức ảnh chứng minh mua hết toàn bộ diện tích đất của ông M và qua các lời khai thì việc chuyển nhượng của ông M và ông L là hoàn toàn tự nguyện, chuyển nhượng toàn bộ thửa đất. Điều này chứng minh rằng về mặt ý thức ông M đã chuyển nhượng toàn bộ thửa đất không có sự phản đối, quá trình sử dụng đất của ông L đã ổn định, lâu dài cho người thuê để cất nhà cho nhân viên ở.
Thứ tư, năm 2016 ông L đã chuyển nhượng toàn bộ các thửa đất trên cho bà KL. Cho nên quyền sử dụng đã chuyển qua bà KL và trong quá trình khởi kiện ông M không cung cấp các tài liệu, chứng cứ gì chứng minh mình có quyền đối với thửa đất tranh chấp trên. Do đó, bà KL là người thứ ba ngay tình trong việc xác lập giao dịch dân sự giữa bà và ông L mà ông M không có tranh chấp trong việc chuyển nhượng toàn bộ ba thửa. Vì vậy, thửa đất ở giữa vẫn giao cho bà KL tiếp tục quản lý và sử dụng.
Như vậy, ông M không chứng minh được về quyền sử dụng đất đối với thửa đất đang tranh chấp nên quyền yêu cầu khởi của ông M là không có cơ sở.
Trên đây là quan điểm của tác giả, rất mong nhận được ý kiến trao đổi của quý độc giả!
Tòa án Tp Phú Quốc xét xử vụ án dân sự - Ảnh: MH
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Nhận thức về đối tượng áp dụng “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự” để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù
-
Tòa tuyên án với 17 bị cáo trong vụ án "chuyến bay giải cứu" giai đoạn 2
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
-
Sắp diễn ra Tuần lễ Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu 2024
-
TAND TP Hà Nội xét xử sơ thẩm 17 bị cáo trong vụ án “chuyến bay giải cứu” giai đoạn 2
Bình luận