Áp giải, dẫn giải trong tố tụng hình sự và một số kiến nghị

Biện pháp áp giải, dẫn giải được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã có những quy định bổ sung, mở rộng các trường hợp áp giải, dẫn giải. Tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng vẫn còn có những bất cập nhất định.

1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về áp giải, dẫn giải

1.1. Khái niệm áp giải, dẫn giải

Áp giải và dẫn giải đã được BLTTHS năm 2003 quy định như là một biện pháp cưỡng chế để bảo đảm cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được diễn ra theo đúng trình tự, quy định của pháp luật. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 chưa quy định khái niệm về áp giải, dẫn giải và các căn cứ để áp giải mà chỉ quy định rải rác trong các điều luật. Việc quy định như vậy chưa chặt chẽ, gây khó khăn trong quá trình áp dụng. Vì vậy, BLTTHS năm 2015 đã quy định riêng một mục về biện pháp cưỡng chế áp giải, dẫn giải và có những quy định chi tiết hơn về các trường hợp áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải.

Theo quy định tại điểm k, khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015: “Áp giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử”.

 Áp giải có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội.

Đối với “dẫn giải” được quy định tại điểm l, khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015: “Dẫn giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người làm chứng, người bị tố giác hoặc bị kiến nghị khởi tố đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử hoặc người bị hại từ chối giám định”.

Đối tượng dẫn giải mở rộng hơn so với BLTTHS năm 2003, cụ thể dẫn giải có thể áp dụng trong những trường hợp sau:

- Người làm chứng trong trường hợp họ không có mặt theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan;

- Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan;

- Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.

1.2. Thẩm quyền ra quyết định áp giải, dẫn giải

Theo quy định tại khoản 3 Điều 127 BLTTHS 2015 thì người có thẩm quyền ra quyết định áp giải, dẫn giải bao gồm:

- Điều tra viên, cấp trưởng của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

- Kiểm sát viên;

- Thẩm phán chủ tọa phiên tòa;

- Hội đồng xét xử.

BLTTHS năm 2003 chỉ quy định cơ quan ra quyết định triệu tập bị can, bị cáo, người làm chứng có quyền ra quyết định áp giải, dẫn giải, tới BLTTHS năm 2015 đã mở rộng chủ thể có thẩm quyền ra quyết định áp giải, dẫn giải để đảm bảo việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, linh hoạt, tăng cường tính độc lập, nâng cao trách nhiệm của chủ thể tiến hành tố tụng.

1.3. Nội dung quyết định áp giải, dẫn giải

Quyết định áp giải, quyết định dẫn giải phải ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị áp giải, dẫn giải; thời gian, địa điểm người bị áp giải, dẫn giải phải có mặt cùng những nội dung như sau:

a) Số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành văn bản tố tụng;

b) Căn cứ ban hành văn bản tố tụng;

c) Nội dung của văn bản tố tụng;

d) Họ tên, chức vụ, chữ ký của người ban hành văn bản tố tụng và đóng dấu.

Người thi hành quyết định áp giải, dẫn giải phải đọc, giải thích quyết định và lập biên bản về việc áp giải, dẫn giải.

Việc sửa đổi quy định từ “không được áp giải vào ban đêm” và “không được dẫn giải người làm chứng vào ban đêm” trong BLTTHS năm 2003 thành “không được bắt đầu việc áp giải, dẫn giải người vào ban đêm” trong BLTTHS năm 2015 vừa để bảo đảm một cách hợp lí quyền con người, vừa tạo thuận lợi cho yêu cầu giải quyết vụ án hình sự. Ban đêm là thời điểm nhạy cảm cho các hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là các hoạt động có ảnh hưởng đến thân thể, sức khoẻ, cũng như danh dự, nhân phẩm của người khác dễ dẫn đến sự phản ứng, gây dư luận không tốt, do đó việc BLTTHS năm 2015 không cho phép thực hiện áp giải vào ban đêm là hoàn toàn đúng đắn, đảm bảo cho biện pháp áp giải được thực hiện đúng nguyên tắc pháp luật, đảm bảo quyền con người được tôn trọng tối đa. Việc quy định như vậy đảm bảo cho biện pháp áp giải, dẫn giải vừa mang tính cưỡng chế nghiêm khắc, vừa thể hiện tính nhân đạo, mềm mỏng trong các tình huống thực tiễn.

BLTTHS năm 2015 còn bổ sung thêm trường hợp không áp giải, dẫn giải người già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ quan y tế. Bởi lẽ, những người già yếu khi áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải có thể gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe của họ. Điều này cũng được lý giải bởi do tính chất, đối tượng áp dụng của biện pháp áp giải, dẫn giải không nghiêm trọng như việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người bị buộc tội. Đồng thời thể hiện sự nhân đạo của pháp luật Việt Nam.

2. Những bất cập của biện pháp áp giải, dẫn giải và kiến nghị

2.1. Những bất cập

Thứ nhất, khoản 1 Điều 127 BLTTHS năm 2015 quy định: “Áp giải có thể áp dụng đối với người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội”. Quy định này chỉ mới xác định đối tượng có thể áp dụng biện pháp dẫn giải, chứ chưa quy định căn cứ để áp dụng biện pháp này. Việc quy định như vậy dẫn tới có những cách hiểu chưa thống nhất, gây khó khăn trong quá trình áp dụng.

Thứ hai, BLTTHS năm 2015 đã có sự mở rộng cả về đối tượng áp dụng, thẩm quyền áp dụng và làm rõ hơn về thủ tục áp dụng so với BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, thủ tục thực hiện biện pháp áp giải, dẫn giải vẫn tuân theo quy trình bắt, áp giải bị can, bị cáo, người có quyết định thi hành án phạt tù, dẫn giải người làm chứng tại Quyết định số 1502/2008/QĐ-BCA ngày 10/9/2008 của Bộ Công an ban hành quy trình bắt, áp giải bị can, bị cáo, người có quyết định thi hành án phạt tù, dẫn giải người làm chứng của lực lượng cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc công an nhân dân theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành TTHS. Hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về việc dẫn giải các đối tượng còn lại như người làm chứng, người bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị.... Bên cạnh đó, quy trình thực hiện việc dẫn giải cũng chưa thật sự rõ ràng, triệt để, đặc biệt trong trường hợp người bị dẫn giải (người làm chứng, người bị hại) từ chối hợp tác, không chấp hành quyết định dẫn giải hoặc cố tình chống đối gây khó khăn cho chủ thể thực hiện việc áp giải, dẫn giải.

 BLTTHS năm 2015 quy định người bị hại chỉ bị dẫn giải trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan. Theo quy định tại Điều 292 BLTTHS năm 2015, nếu bị hại vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử. Việc hoãn phiên tòa có thể ảnh hưởng đến kế hoạch xét xử chung của Tòa án, ảnh hưởng đến người tham gia tố tụng khác trong vụ án, nhưng Bộ luật đã không quy định dẫn giải người bị hại trong trường hợp này để hạn chế trường hợp hoãn phiên tòa.

Thứ ba, việc quy định tại khoản 2 Điều 127 BLTTHS năm 2015 về dẫn giải áp dụng khi các chủ thể không có mặt theo giấy triệu tập mà “không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan” chưa hợp lý. Bởi lẽ khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng muốn áp dụng biện pháp dẫn giải có thể phải chứng minh lý do vắng mặt không phải là bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì các đối tượng bị dẫn giải mới chấp hành quyết định dẫn giải. Việc áp dụng khi chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng.

2.2. Kiến nghị

Thứ nhất, sửa đổi nội dung khoản 1 Điều 127 theo hướng:

Điều 127. Áp giải, dẫn giải

1.Áp giải có thể áp dụng đối với:

a) Bị can, bị cáo không có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan hoặc có biểu hiện trốn tránh;

b) Đưa người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can đến địa điểm để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố hoặc xét xử.

Thứ hai, cần có hướng dẫn về xác định “lý do bất khả kháng”, “trở ngại khách quan”, “có biểu hiện trốn tránh” để thống nhất trong việc áp dụng quy định pháp luật về áp giải, dẫn giải. Bên cạnh đó ban hành văn bản thay thế Quyết định số 1502/2008/QĐ-BCA, quy định bổ sung về các trường hợp dẫn giải các đối tượng còn lại như người làm chứng, người bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị...

Thứ ba, cần bổ sung trường hợp dẫn giải đối với người bị hại trong trường hợp họ không có mặt theo giấy triệu tập tại phiên tòa lần thứ hai sau khi họ đã vắng mặt dẫn đến phải hoãn phiên tòa lần thứ nhất và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc xét xử để không làm ảnh hưởng đến kế hoạch xét xử chung của Tòa án, cũng như ảnh hưởng đến người tham gia tố tụng trong vụ án khác.

Thứ tư, đưa người giám định vào đối tượng bị áp dụng biện pháp dẫn giải để phù hợp với nguyên tắc tại Điều 5 BLTTHS năm 2015: “Cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ” và “nghiêm cấm mọi hành vi cản trở hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ”. Bởi vì người giám định với tư cách là viên chức nhà nước có trách nhiệm cao hơn người làm chứng trong công tác phòng chống tội phạm, nhất là đối với những trường hợp cần giải quyết các vấn đề phức tạp về chuyên môn, phục vụ cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Do vậy, cần quy định mở rộng đối tượng áp dụng biện pháp dẫn giải bao gồm cả người giám định.

 

Dẫn giải đối tượng vận chuyển trái phép chất ma túy - Ảnh: Bùi Ngân

 

ĐỖ VĂN DUY (Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 3)