B có hành vi phạm tội độc lập đối với A

Sau khi nghiên cứu bài viết “Người trộm cắp tài sản dưới 16 tuổi thì người tiêu thụ tài sản có phải chịu trách nhiệm hình sự không?” của tác giả Nguyễn Thị Kim Phượng đăng ngày 07/3/2024, tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất.

Theo hướng dẫn tại mục 8 phần I Công văn 64/TANDTC – PC ngày 03/4/2019 của TANDTC thì theo quy định tại Điều 323 của BLHS về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì: 1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30-11-2011 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, VKSNDTC, TANDTC hướng dẫn áp dụng quy định của BLHS năm 1999 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì: 1. “Tài sản do người khác phạm tội mà có” là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hi lộ...) hoặc do người phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ô để mua); 2. “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có ” là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”.

Như vậy, theo quy định tại Điều 323 của BLHS và hướng dẫn nêu trên thì mặt chủ quan của tội phạm này chỉ bắt buộc người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết tài sản đó do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có, mà không buộc người tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ ai là người đã trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội để có được tài sản đó và họ đã bị xử lý hình sự hay chưa. Do vậy, trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội trước không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng có đủ chứng cứ chứng minh được ý thức chủ quan của người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ biết rõ các tài sản mà họ chứa chấp, tiêu thụ là do người khác phạm tội mà có thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Trở lại nội dụng vụ án, B biết rõ chiếc điện thoại là tài sản do A trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý mua thì về mặt ý thức chủ quan B đã tiếp nhận ý chí và cố tình tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cho nên hành vi của B đã thỏa mãn dấu hiệu của tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 BLHS. Bên cạnh đó, việc xử lý hình sự đối với Nguyễn Văn A về hành vi trộm cắp tài sản thuộc trường hợp người dưới 16 tuổi có căn cứ vào khả năng nhận thức của người phạm tội về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm… Vì vậy, sẽ xem xét và xử lý hình sự với hành vi phạm tội độc lập đối với A.

TRẦN VĂN MINH (Tòa án quân sự khu vực Quân khu 7)

Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương  xét xử sơ thẩm vụ án “Cướp tài sản" và "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”- Ảnh: Trần Văn Hiển