Lý luận chung về Cải cách tư pháp

Là một lĩnh vực nghiên cứu của khoa học pháp lý, cải cách tư pháp có đối tượng nghiên cứu, cách tiếp cận, những nội dung nghiên cứu chủ yếu và phải có những kết quả là đạt được các nhận thức khoa học bằng việc hình thành các khái niệm, các quan điểm khoa học ở các cấp độ xây dựng mới, bổ sung, tiếp tục làm rõ chúng. Đương nhiên, lý luận về cải cách tư pháp không thể đứng ngoài mối quan hệ với khoa học pháp lý chuyên ngành.

Chiến lược Cải cách tư pháp (CCTP) được tiến hành từ Nghị quyết 49/NQ-TW năm 2005.  Nghị quyết này là kết quả nghiên cứu của khoa học pháp lý trong thời gian dài để từ đó đưa ra những quan điểm chỉ đạo cũng như chứa đựng trong đó các quan điểm khoa học rất mới,  lần đầu tiên xuất hiện trong quan điểm chỉ đạo của Đảng về tư pháp trong Nghị quyết 49/NQ-TW như: quyền tư pháp, hệ thống tư pháp, bảo vệ công lý,  tranh tụng, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, lấy Tòa án làm trung tâm. Kể từ đó, CCTP đã mở ra hướng nghiên cứu cơ bản cho khoa học pháp lý: Nghiên cứu về CCTP ở phương diện lý luận, thực tiễn và so sánh. Kết quả nghiên cứu đó cho ra đời hệ thống lý luận về CCTP với các khái niệm, các quan điểm khoa học được hình. Như vậy, lý luận về CCTP hệ thống tri thức về bản chất,  về các quy luật, các mối quan hệ  cơ bản của CCTP được thể hiện bằng các nguyên lý,  phạm trù, khái niệm,  quan điểm khoa học rút ra từ nghiên cứu của lý luận khoa học xã hội nói chung, khoa học pháp lý nói riêng và được rút ra từ việc tổng kết từ thực tiễn hoạt động tư pháp ở nước ta. Tiếp tục cải cách tư pháp là một trong những nhiệm vụ lớn mà Đảng xác định trong Nghị quyết Đại hội XIII mà hình thức của nó có thể là một Nghị quyết của Đảng về tiếp tục Cải cách tư pháp cho giai đoạn mới. Kinh nghiệm từ Cải cách tư pháp năm 2005 cho thấy, để làm điều này cần thiết phải tiếp tục xây dựng, bổ sung, làm giàu nền tảng lý luận về cải cách tư pháp, trên cơ sở đó thiết kế các tư tưởng, quan điểm chỉ đạo  cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng các mục tiêu, nhiệm vụ cho chiến lược cải cách tư pháp đồng thời phục vụ tổ chức thực hiện chiến lược này.

Là một lĩnh vực nghiên cứu của khoa học pháp lý, cải cách tư pháp có đối tượng nghiên cứu, cách tiếp cận, những nội dung nghiên cứu chủ yếu và phải có những kết quả là đạt được các nhận thức khoa học  bằng việc hình thành các khái niệm, các quan điểm khoa học  ở các cấp độ xây dựng mới, bổ sung, tiếp tục làm rõ chúng. Đương nhiên, lý luận về cải cách tư pháp không thể đứng ngoài mối quan hệ với khoa học pháp lý chuyên ngành.

1.Lý luận về cải cách tư pháp- đối tượng nghiên cứu và cách tiếp cận

Là một lĩnh vực khoa học pháp lý, lý luận cải cách tư pháp có đối tượng nghiên cứu của nó là cải cách tư pháp. Chính vì vậy nhiệm vụ đầu tiên của nghiên cứu lý luận về cải cách tư pháp cần làm rõ khái niệm CCTP, trong đó câu hỏi đầu tiên là CCTP là gì? CCTP được nghiên cứu chủ yếu tập trung vào khía cạnh nào đó của CCTP như mục đích, quan điểm, nội dung, nhiệm vụ… nhưng bản thân nó là gì chưa được nhận thức khoa học đầy đủ. Để xây dựng khái niệm CCTP có hai hướng, (i) từ kết quả của nghiên lý luận của khoa học pháp lý trong đó lý luận chung về nhà nước và pháp luật và các lĩnh vực khoa học pháp lý chuyên ngành – Hướng nghiên cứu này đã được thực hiện trước khi CCTP được thực hiện (ii) và từ thực tiễn CCTP trong thời gian qua khái quát thành các luận điểm khoa học – Khái niệm này được xây dựng sau khi Chiến lược CCTP được ban hành và triển khai trên thực tế.

Quan điểm đầu tiên về CCTP trong khoa học pháp lý hình thành trước khi có Chiến lược CCTP là: hệ thống các giải pháp đồng bộ với tầm nhìn rộng, dài về̀ các vấn đề̀ thuộc về bản chất của hệ thống tư pháp và sự phát triển của hệ thống tư pháp và những điều kiện có tính chất quyết định cho sự phát triển của hệ thống ấy”[1]. Như vậy, dưới góc độ pháp lý, CCTP là một chính sách pháp luật trong đó hiện diện đầy đủ yêu cầu của của một chính sách như: giải pháp,  tầm nhìn các nội dung cần giải quyết các điều kiện để đảm bảo thực hiện và CTP được đặt trong trạng thái động (phát triển) nhằm hướng tới mục đích nhất định. Với tiêu chí đó, Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về Cải cách tư pháp về chính trị là quan điểm chỉ đạo của Đảng về khoa học đó là chính sách pháp luật đồng bộ, toàn diện về tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam. Chính sách này đặt ra các nhiệm vụ mà lý luận về Cải cách tư pháp đã, đang tiếp tục giải quyết mà cốt lõi nhất là bản chất của hệ thống tư pháp như: tư pháp, quyền tư pháp, hệ thống tư pháp… với mục đích đổi mới nhận thức, từ đó đổi mới cách thức tổ chức thực hiện tư pháp ở Việt Nam ở các phương diện khác nhau.

Sau Nghị quyết 49/NQ-TW ra đời, khái niệm CCTP tiếp tục được bổ sung và làm sáng tỏ. Có ý kiến cho rằng: Cải cách tư pháp luôn được hiểu với ý nghĩa chung nhất là sự thay đổi đem lại những điều mới có ích cho việc xây dựng nhà nước và bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nếu không đạt được ý nghĩa này, cải cách tư pháp sẽ bị coi là thất bại.[2] Như vậy, CCTP đã được xem như quá trình thay đổi từ cái cũ sang cái mới với mục đích là xây dựng nhà nước và bảo vệ tốt hơn các quyền của người dân. Với ý nghĩa là sự thay đổi, CCTP phải bắt đầu từ việc tổng kết nhận thức và thực tiễn về tư pháp trong quá khứ , phát hiện ra những vấn đề có tính quy luật để đề xuất  mục tiêu, giải pháp của tư pháp trong tương lại. Ví dụ quy luật về sự phát triển của kinh tế, xã hội đặt ra cho tư pháp cần mở rộng thẩm quyền để đáp ứng nhu cầu giải quyết mọi tranh chấp trong xã hội; vấn đề nhà nước pháp quyền đòi hỏi tư pháp cần giải quyết vấn đề quyền con người.

Cùng với quá trình CCTP, đặt trong bối cảnh chung nhận thức về nhà nước và pháp luật đã có sự thay đổi kéo theo đó là sự thay đổi trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước và pháp luật. Vấn đề nhà nước pháp quyền đã được nghiên cứu ở Việt Nam từ đầu năm 90 của thế kỷ trước và hiện diện trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2002) trong đó quyền tư pháp đã được thừa nhận. Việc thừa nhận quyền tư pháp rõ ràng tác động lớn đến cải cách tư pháp ở mọi phương diện từ khái niệm đến nội dung, nhiệm vụ… Tiếp cận từ hướng này, khái niệm CCTP là: “Cải cách tư pháp là việc sử dụng đồng bộ các giải pháp nhằm thay đổi nhận thức, tổ chức, thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền” [3]. Khái niệm này chỉ ra đối tượng của CCTP đó chính là tổ chức thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền đồng thời chỉ rõ nhiệm vụ của CCTP ở các phương diện: nhận thức về quyền tư pháp và tổ chức thực hiện quyền tư pháp.

Tiếp cận từ phương diện chính trị, pháp lý, GS Võ Khánh Vinh cho rằng: CCTP là sự cải tạo, sự đổi mới một số bộ phận tư pháp không  còn phù hợp để đáp ứng yêu cầu phát triển khách quan của tư pháp. Cải cách tư pháp tạo ra những thay đổi mang tính chỉnh thể, hệ thống về tư pháp bao quát cả tư duy và hành động trong lĩnh vực tư pháp.[4].

 Khái niệm CCTP với tư cách là đối tượng nghiên cứu của lý luận về CCTP cần phải được tiếp tục làm rõ. Tuy nhiên, dù quan điểm của các nhà nghiên cứu có nhau nhưng đều phải giải quyết được nội hàm của nó là “cải cách” và “tư pháp”. Ở phương diện thứ nhất, CCTP phải nhìn từ quan điểm lịch sử đó là nhận thức, đánh giá được thực tiễn tư pháp trong bối cảnh trước đây, từ đó dự báo xu thể phát triển của nó trong tương lai và đặt ra yêu cầu phải phát hiện ra các quy luật, xu hướng tất yếu của CCTP trong bối cảnh mới và điều chỉnh bằng chính sách. Điều này được minh chứng bằng Chiến lược CCTP theo Nghị quyết 49/NQ-TW. Đồng thời giúp chúng ta giải quyết vấn đề trong thời gian tới cần thiết có nghị quyết về CCTP hoặc nghị quyết về tiếp tục CCTP trong thời gian tới.  Ở phương diện thứ hai, tư pháp cần hiểu theo nhiều phương diện: đó là một loại quyền lực trong quyền lực nhà nước; đó là các hoạt động thực hiện quyền tư pháp, là hệ thống các các chủ thể thực hiện và tham gia thực hiện quyền tư pháp…

Về hướng tiếp cận của lý luận CCTP, lý luận CCTP có đối tượng nghiên cứu là CCTP bằng các phương pháp khoa học giúp người nghiên cứu có được những tri thức lý luận về nó. Không chỉ vậy, để có tri thức về đối tượng nghiên cứu là CCTP cần tiếp cận CCTP từ các phương diện khác nhau. Theo GS.TS Võ Khánh Vinh, CCTP được tiếp cận  quyền lực, tiếp cận giá trị quyền, tiếp cận tổ chức và nhân lực[5]. Các tiếp cận này bao trùm cả phương diện lý luận và tổ chức thực hiện.

Từ phương diện lý luận tiếp cận CCTP còn có thể chia thành tiếp cận chung và tiếp cận chuyên ngành luật học. Theo đó CCTP với tư cách là đổi mới cách thức tổ chức quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền thì nó phải được tiếp cận từ lý luận chung nhà nước và pháp luật và khoa học Luật hiến pháp. Các khoa học này cung cấp các tri thức nền tảng về quyền lực nhà nước, về nhà nước pháp quyền, về quyền tư pháp, quyền con người… Trên cơ sở đó làm sáng tỏ được các nội hàm của khái niệm CCTP.

Từ phương diện tiếp cận chuyên ngành luật học,  CCTP bao gồm nội dung như cải cách pháp luật phục vụ tư pháp (pháp luật hình sự, dân sự, kinh tế…), cải cách tổ chức cơ quan tư pháp, cải cách nhân lực tư pháp,  hợp tác quốc tế trong CCTP, cải cách tư pháp hình sự, dân sự, hành chính. Chính vì vậy, lý luận CCTP có toàn diện và được làm sâu sắc hay không phải dựa trên kết quả nghiên cứu của khoa học luật chuyên ngành. Ví dụ CCTP đặt ra vấn đề tranh tụng, nhưng tranh tụng lại là nội dung, một nguyên tắc của luật về tố tụng. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật chuyên ngành cần dựa trên những quan điểm của lý luận chung về CCTP. Khi và chỉ khi có sự kết hợp hòa từ các phương diện, tri thức của lý luận CCTP mới đầy đủ, toàn diện và có độ tin cậy. Chính vì vậy, nhiệm vụ của lý luận CCTP không chỉ là nghiên cứu CCTP mà còn có đóng góp của nghiên cứu pháp luật chuyên ngành.  Tuy nhiên, đánh giá về cách tiếp cận CCTP của lý luận CCTP, chúng tôi đồng ý với qua điểm cho rằng: Các nghiên cứu về tư pháp, CCTP mới chỉ được tiến hành theo cách tiếp cận của chuyên ngành luật học, còn cách tiếp cận khác chưa được chú trọng nghiên cứu, cho nên chưa hình thành được một hệ thống những vấn đề lý luận đầy đủ, toàn diện, hệ thống và bao quát về tư pháp, CCTP ở nước ta”.

Bên cạnh hai cách tiếp cận trên, CCTP cần được tiếp cận từ phương diện khoa học chính sách, cụ thể là chính sách pháp luật về CCTP. Chính sách pháp luật được định nghĩa : “là hoạt động có căn cứ khoa học, nhất quán và hệ thống của các cơ quan nhà nước và của các thiết chế xã hội nhằm xây dựng cơ chế điều chỉnh pháp luật có hiệu quả, sử dụng văn minh các phương tiện pháp luật để đạt được mục đích bảo đảm đầy đủ nhất các quyền và tự do của con người và của công dân, hình thành và phát triển Nhà nước pháp quyền, văn hóa pháp luật và đời sống pháp luật của xã hội và của cá nhân”[6].  Như vậy, từ phương diện chính sách,  lý luận về CCTP phải làm rõ vấn đề cơ chế điều chỉnh đối với CCTP. CCTP là lĩnh cực hoạt động trong đó phát sinh nhiều quan hệ xã hội cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật thông qua cơ chế điều chỉnh của nó. Từ cách tiếp cận này, đặt ra cho lý luận về CCTP các nội dung nhiên cứu như chủ thể CCTP và nhiệm vụ của nó, pháp luật về (phục vụ) CCTP, ý thức pháp luật về CCTP…

Chính vì vậy, xác định và đa dạng hóa, nói cách khác là nhìn CCTP từ các phương diện sẽ đem đến tri thức đầy đủ, toàn diện và từ đó phục vụ cho việc xây dựng và thực hiện chiến lược CCTP trong tình hình mới.

2.Những luận điểm cơ bản của lý luận về cải cách tư pháp

Thực tiễn CCTP đặt ra cho lý luận về CCTP nhiều nội dung cần giải quyết về lý luận ở cấp lý luận chung và khoa học pháp lý chuyên ngành[7]. Về các luận điểm của lý luận CCTP chúng tôi chia thành hai nhóm. Thứ nhất, các nội dung đã được nghiên cứu, tuy nhiên cần tiếp tục làm rõ như quyền tư pháp, hệ thống tư pháp, cơ quan tư pháp, kiểm soát quyền tư pháp. Thứ hai, nhóm những luận điểm mới mà CCTP đòi hỏi nghiên cứu để hình thành khái niệm, quan điểm khoa học rút ra từ thực tiễn và xu thế phát triển của tư pháp trong thời gian tới. Đó là các vấn đề mới như lý luận chung về CCTP, như chế độ tư pháp, pháp luật tư pháp, nhân lực tư pháp.

Đối với nhóm thứ nhất, ngoài việc tiếp tục nhận thức đúng đắn về các khái niệm đã hình thành cần tập trung luận giải những khái niệm đó gắn với thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Ví dụ  vấn đề quyền tư pháp đã cơ bản rõ lý luận và ghi nhận trong Hiến pháp về  với tư cách là quyền lực độc lập. Tuy nhiên quyền tư pháp đó sẽ thực hiện như thế nào trong bối cảnh nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ta là thống nhất, phân công, phối hợp? hoặc tranh tụng trở thành nguyên tắc những sẽ đảm bảo thực hiện thế nào trong mô hình tố tụng hình sự không  phải là tranh tụng như ở Việt Nam, trong điều kiện Việt Nam còn thiếu luật sư ?… Dùng lý luận để giải quyết các vấn đề thực tiễn CCP ở Việt Nam hiện nay là nhiệm vụ bao quát của việc nghiên cứu nhóm vến đề này.  Đối với nhóm nghiên cứu thứ hai, là những vấn đề mới đặt ra từ thực tiễn và yêu cầu CCTP

Dưới đây, chúng tôi đề xuất những hướng nghiên cứu mới về quyền tư pháp liên quan đến những luận điểm mới về quyền tư pháp để phục vụ CCTP.

Quan điểm về quyền tư pháp: Quyền tư pháp lâu nay chỉ được tiếp cận từ phương diện quyền lực và hoạt động tư pháp bao gồm điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động bổ trợ. Điều đó đúng như chưa đủ và chưa bao quát hết được yêu cầu và nội dung của CCTP đến năm 2045.  Theo GS.TS Võ Khánh Vinh cần có cách tiếp cận quyền lực, tiếp cận giá trị pháp quyền, tiếp cận tổ chức thực hiện và tiếp cận nhân lực tư pháp[8]. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này và bình luận thêm. Cách tiếp cận này không chỉ khắc phục việc tiếp tục cải cách tư pháp với tư cách là hoạt động và tổ chức của các cơ quan tư pháp mà còn nhằm thực hiện Quy định của Hiến pháp về việc Tòa án thực hiện quyền tư pháp. Với cách tiếp cận này sẽ cho thấy những vai trò khác quan trọng hơn của quyền tư pháp cũng như Tòa án như kiểm soát quyền lực, bảo vệ Hiến pháp

Quan điểm giá trị của quyền tư pháp:  Từ phương diện giá trị, tư pháp và quyền tư pháp đem lại những lợi ích cho sự phát triển của xã hội, sự phát triển của con người. Đây là các giá trị của quyền tư pháp. Giá trị đó có thể là giá trị về kinh tế, khi Tòa án thực hiện quyền tư pháp góp phần quan trọng trong bảo đảm quyền tự kinh doanh, quyền sở hữu, phòng ngừa tội phạm kinh tế, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại làm lành mạnh háo thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN của chúng ta. Quyền tư pháp còn chứa đựng giá trị xã hội ở chỗ nó hiện thân của công bằng, của công lý, đạo đức truyền thống, của tính hiện đại khi tiếp thu các giá của tư pháp nhân loại… khi nó được Tòa án thực thi sẽ bảo vệ các giá trị đó, lan tỏa các giá trị đó đối với xã hội.

Quan điểm tiếp cận chế độ tư pháp. Về vấn đề này, GS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: Quyền tư pháp thể hiện tập trung trong chế độ tư pháp, quyết định các đặc điểm, nội dung của chế độ tư pháp. Quyền tư pháp là trung tâm của chế độ tư pháp, của nền tư pháp. Quyền tư pháp là vấn đề mang tính chính trị – pháp lý, tính cương lĩnh, tính hiến pháp, do vậy, chế độ tư pháp cũng mang tính chính trị – pháp lý, tính cương lĩnh, tính hiến pháp. Chế độ tư pháp có thể được xem xét trên các phương diện: chính trị, xã hội, pháp luật. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này và cho rằng, chế độ tư pháp hiểu theo nghĩa rộng là không gian, trạng thái, nền tảng vận hành của quyền tư pháp hay và nó tạo ra thể chế tư pháp bên cạnh thể chế chính trị, kinh tế và xã hội. Xây dựng và hoàn thiện thể chế tư pháp sẽ cũng là một yêu cầu, mục tiêu cho tầm nhìn của CCTP đến năm 2045.

Kết luận

 Cải cách tư pháp là một chính sách lớn. Thực tế cho thấy vai trò của lý luận đóng góp cho CCTP từ 2005 đến nay. Với nền tảng về chính trị thể hiện bằng các quan điểm của Đảng về xây dựng NNPQ trong tính hình mới, nền tảng Hiến pháp 2013, cần thiết phải tiếp tục có chính sách về CCTp cho giai đoạn mới. Cũng như vậy lý luận về CCTP cần được hình thành như một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng của khoa học pháp lý với những phạm trù, khái niệm, quan điểm cần được xây dựng. để CCTP không chỉ là quyết tâm chính trị mà còn có cơ sở khoa học và có tính khả thi.

 

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương phát biểu tại Phiên họp thứ 13

 

[1] Đào Trí Úc, Cải cách tư pháp ý nghĩa, mục đích và trọng tâm, tạp chí nhà nước và Pháp luật, số 178, 2003, tr.3

[2] Phạm Văn Hùng trong bài Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19/2008

[3]Đinh Thế Hưng, Nhận thức về tính hiện đại của thiết chế tư pháp, cải cách tư pháp trong Nghị quyết Đại hội XIII, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/nhan-thuc-ve-tinh-hien-dai-cua-thiet-che-tu-phap-cai-cach-tu-phap-trong-nghi-quyet-dai-hoi-xiii

[4] Võ Khánh Vinh. Tiếp tục đẩy mạnh CCTP ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia Tiếp tục đẩy mạnh Cải cách tư pháp ở Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện KHXH- Viện hàn lâm KHXH Việt Nam và Khoa Luật- Đại học Mở Hà Nội tổ chức tháng 10/2020, tr.11

[5] Võ Khánh Vinh, tlđd

[6] Võ Khánh Vinh, Chính sách pháp luật, Giáo trình sau đại học, Học viện Khoa học xã hội, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, H. 2020; Tr.13

[7] GS.TSKH Lê cảm đưa ra 6 luận điểm  cơ bản về CCTP là: 91) hệ thống các quan diểm khoa học eevf CCTP ở Việt Nam hiện nay; (2) Khái niệm và nội hàm của CCTP; (3) các nguyên tắc của CCTP; (4) các yêu cầu của CCTP; (5) các mục tiêu của CCTP hiện nay; (6) phạm vi của CCTP

[8]  Veefox Khánh vinh, Về quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ve-quyen-tu-phap-va-che-do-tu-phap-o-nuoc-ta

TS ĐINH THẾ HƯNG (Viện Nhà nước và Pháp luật- Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam)