Đổi mới chất lượng đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống Toà án nhân dân, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới

Đổi mới chất lượng đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, là một trong những nội dung quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng là nhiệm vụ hết sức to lớn đối với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND nói riêng.

1. Yêu cầu về đổi mới chất lượng đào tạo bồi dưỡng các chức danh tư pháp đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục của Đảng

Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI (Nghị quyết số 29) ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế nhấn mạnh:  “Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”[1]

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế nhất định như:

Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất.

Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp.

Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu…

Bên cạnh đó, Nghị quyết 29 cũng chỉ rõ các nguyên nhân của những hạn chế trên, trong đó có một số nguyên nhân sau: (i) Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là quan điểm "giáo dục là quốc sách hàng đầu" còn chậm và lúng túng. Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch và chương trình phát triển giáo dục-đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội; (ii) Mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng. Bệnh hình thức, hư danh, chạy theo bằng cấp... chậm được khắc phục, có mặt nghiêm trọng hơn. Tư duy bao cấp còn nặng, làm hạn chế khả năng huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục, đào tạo; (iii) Việc phân định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo dục, đào tạo chưa rõ. Công tác quản lý chất lượng, thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa được coi trọng đúng mức. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội chưa chặt chẽ. Nguồn lực quốc gia cho giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu.

PGS.TS Phạm Minh Tuyên- Giám đốc Học viện Tòa án

Điều đó đã đặt ra yêu cầu đổi mới đối với toàn bộ hệ thống giáo dục, đào tạo, trong đó có hoạt động đào tạo bồi dưỡng các chức danh tư pháp đối với hệ thống TAND.

Một là, yêu cầu đối với đào tạo bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống Toà án nói riêng cũng phải được đổi mới trên cơ sở khắc phục những hạn chế, nhằm nâng cao chất lượng theo tinh thần của nghị quyết 29 đó là: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”.[2] Mà ở đây là đội ngũ các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND, bên cạnh việc nâng cao năng lực người học chính là nâng cao khả năng áp dụng pháp luật để giải quyết những tranh chấp thuộc Thẩm quyền của Toà án.

Hai là, Việc đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND phải gắn liên với yêu cầu phát triển của kinh tế xã hội, sự phát triển của hệ thống TAND trong từng thời điểm lịch sự cụ thể, phù hợp với sự tiến bộ của khoa học công nghệ...

Ba là, Bên cạnh đó việc đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND cũng phải được chú trọng chuyển từ số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu về số lượng.

Bốn là, công tác đào bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND phải chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển, đồng thời đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.

Như vậy, Nghị quyết số 29 – NQ/TW, ngày 04 tháng 11 năm 2013, của Ban chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đã đặt ra nhiều yêu cầu đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND nói riêng.

2. Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra yêu cầu đối với hệ thống TAND và đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND

Hiến pháp năm 2013 quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” và “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”[3]. Với vị trí đặc biệt của Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tòa án cần có tổ chức và hoạt động phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.

Thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng cũng đặt ra những yêu cầu mới về tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án nói chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống Toà án nói riêng. Việt Nam hiện nay, đã và đang hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên cơ sở “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”[4] Quan điểm đó được nhận thức ngày càng hoàn thiện qua từng giai đoạn khác nhau và thể hiện qua các kỳ đại hội. Việt Nam khẳng định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”[5]

Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ “Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về pháp luật quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế[6]

Qua đó khẳng định, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những yêu cầu mới về tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND trong công tác đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND. Trong quá trình hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh ngày càng nhiều những tranh chấp, tội phạm xuyên quốc gia… Ngoài những vụ việc có tính chất phổ biến hiện nay, thì ngày càng xuất hiện những vụ việc có tính chất phức tạp trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực tranh chấp thương mại quốc tế…mà nước ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Do đó, vấn đề cấp bách của hệ thống Toà án trong quá trình hội nhập hiện nay là hệ thống Toà án phải có được nguồn nhân lực đảm nhiệm các chức danh tư pháp trong hệ thống Toà án, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán đáp ứng yêu cầu giải quyết những tranh chấp quốc tế, đấu tranh phòng chống các loại tội phạm xuyên quốc gia, các loại hình tội phạm phi truyền thống… góp phần ổn định và phát triển đất nước. Để thực hiện được nhiệm vụ đó thì hệ thống Toà án cần xây dựng được chiến lược về việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán theo hướng chuyên sâu theo từng lĩnh chuyên sâu theo từng lĩnh vực, có như vậy mới đảm bảo tính chuyên môn hoá nghề nghiệp, nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc của hệ thống Toà án nhân dân.

3. Xây dựng nền tư pháp công bằng, liêm chính, chuyên nghiệp, hiện đại đặt ra yêu cầu đổi mới đào tạo bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND

Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức cá nhân[7] là một nội dung quan trọng về cải cách tư pháp được chỉ ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 20230 của Đảng.

Xây dựng nền tư pháp công bằng, liêm chính, chuyên nghiệp, hiện đại có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”[8], đây cũng là mục tiêu lớn mà Đảng ta đã đề ra, là cơ sở để bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Qua 15 năm thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, nền tư pháp Việt Nam đã có nhiều kết quả hướng đến hoàn thành mục tiêu bảo đảm “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”[9].

Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh chủ trương tiếp tục cải cách tư pháp và và đề cao việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong đó có vấn đề “xây dựng nền tư pháp công bằng, liêm chính, chuyên nghiệp, hiện đại”.

Việc đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND phải đảm bảo đáp ứng xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính được xác định trong mục tiêu cải cách tư pháp. “Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức cá nhân”[10].  Muốn có nền tư pháp chuyên nghiệp hiện đại, thì phải có nguồn nhân lực đảm nhiệm các chức danh tư pháp nói chung, các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND nói riêng đảm bảo đáp ứng yêu cầu thực hiện các mục tiêu đó. Muốn có được đội ngũ đáp ứng mục tiêu đã đề ra thì không có cách nào khác phải thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống Toà án. Điều đó đặt ra yêu cầu, cũng như trọng trách to lớn của hệ thống TAND nói chung, của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp nói riêng trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 cũng khẳng định phương hướng cụ thể tập trung vào các nội dung cụ thể để hiện thực hoá mục tiêu trên bao gồm các nội dung như: “Nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án trong lĩnh vực dân sự, hành chính, đầu tư, kinh doanh, thương mại và bảo vệ người tiêu dùng[11]  và “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng. Quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu; có cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tuỵ phục vụ nhân dân”.[12]

Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định giải pháp quan trọng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo. Văn kiện đã dành một Chương (Chương XIII) xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Trong đó, Đảng khẳng định cần “Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật”[13].

Như vậy, xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính nằm trong tổng thể các giải pháp về  xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo. Đại hội Đảng lần thứ XIII khẳng định xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, đã đặt ra yêu cầu to lớn đối với hệ thống Toà án nói chung, đặc biệt là yêu cầu đối với cơ sở đào tạo các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND về đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND trong tình hình mới.

4. Yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra những vấn đề mới trong đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp

Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (The Fourth Industrial Revolution) là kỷ nguyên công nghiệp lớn lần thứ tư kể từ cuộc cách mạng công nghiệp lần đầu tiên từ thế kỷ XVIII. 

Có thể khẳng định cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang làm biến đổi sâu sắc đời sống xã hội trên mọi lĩnh vực với tính chất mức độ khác nhau. Trong đó hoạt động đào tạo Thẩm phán ở Việt Nam hiện nay cũng chịu sự tác động của cách mạng công nghệ công nghiệp lần thứ tư.

Trong xu hướng chung của sự phát triển của khoa học công nghệ đã làm thay đổi công tác đào tạo bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND. Hiện nay TANDTC thường xuyên tổ chức các phiên giải đáp trực tuyến qua hệ thống mạng nội bộ, xây dựng cổng thông tin điện tử để công bố công khai bản án (đã được mã hóa thông tin cá nhân). Các hoạt động trên của Tòa án tối cao không những góp phần công khai minh bạch trong hoạt động xét xử của Tòa án mà còn giúp cho nhân dân có thể tiếp cận với các bản án từ đó có thể so sánh đối chiếu với những tình huống trong thực tế khi tham gia các quan hệ pháp luật và khi có tranh chấp pháp luật xảy ra có thể sự đoán được kết quả. Bên cạnh đó cũng là nguồn cơ sở dữ liệu về bản án, quyết định để các chuyên gia phần mềm có thể xây dựng phần mềm nhằm dự đoán hướng giải quyết các vụ việc của Tòa án. Đây là bước đầu cho việc xây dựng Tòa án phù hợp trong xu hướng phát triển của cách mạng công nghiệp công nghiệp lần thứ tư. Bên cạnh đó Tòa án cũng đặt ra yêu cầu khi xây dựng các phần mềm có với các thông tin đầu vào về tình tiết của các vụ án và phần mềm sẽ xử lý cho ra kết quả mang tính chất tham khảo, hoặc những vụ án có tính chất tương tự để người dân có thể dự đoán được kết quả khi họ có những tranh chấp dân sự, hành chính, hoặc vi phạm các quy định của pháp luật hình sự.

Cách mạng công nghệ công nghiệp lần thứ tư tạo ra những trí tuệ nhân tạo "mọi hoạt động trí tuệ đều có thể được mô tả với độ chính xác đủ để được mô phỏng bằng máy" [14] có khả năng phân tích đối chiếu những tình huống pháp lý tương tự nhau thì sẽ được giải quyết như nhau. Đây là cơ sở để người dân có thể so sánh đối chiếu khi gặp phải các tình huống pháp lý để đưa ra nhận định về kết quả giải quyết các vụ việc (đoán định tư pháp). “Đoán định tư pháp của người dân là các dự đoán của xã hội về phương pháp, kết quả giải quyết các vụ án, vụ việc và có thể xuất hiện trong tất cả các vụ án, vụ việc, nhất là các vụ án, vụ việc lớn, dư luận quan tâm. Xã hội càng phát triển, người dân càng quan tâm đến tư pháp thì đoán định tư pháp càng thu hút nhiều người tham gia. Đoán định tư pháp thường rất đa chiều, phong phú, các kết quả dự đoán đưa ra thậm chí rất khác nhau. (Ví dụ: Vụ án Vinasun khởi kiện yêu cầu Grab bồi thường đã thu hút nhiều người dân tham gia dự đoán liệu Vinasun sẽ thắng kiện hay Grab sẽ thắng kiện…). Đoán định tư pháp không chỉ với các vụ án trong nước, mà cả với các vụ án do cơ quan tư pháp nước ngoài giải quyết (Ví dụ: Vụ án liên quan đến cái chết của ông Kim Jong-nam tại Malaysia đã thu hút nhiều người dân tham gia dự đoán liệu công dân Đoàn Thị Hương có thoát tội giết người và được trả tự do hay không…). Đoán định tư pháp được đưa ra dựa trên thông tin công khai về vụ án và phụ thuộc vào kiến thức, kinh nghiệm của từng người tham gia đoán định. Đoán định tư pháp sẽ đạt độ chính xác cao nếu người tham gia đoán định có nhiều thông tin về vụ án, có kiến thức tốt về pháp luật và có kinh nghiệm phong phú. Trong điều kiện truyền thông và internet phát triển mạnh mẽ cũng hỗ trợ tích cực cho đoán định tư pháp, cung cấp kịp thời nhiều thông tin về vụ án, thậm chí đăng tải các ý kiến nhiều chiều từ các nhà chuyên môn để giúp người dân đưa ra các dự đoán về kết quả giải quyết đạt độ chính xác ngày càng cao hơn.”[15]

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra những phần mềm, trí tuệ nhân tạo có thể phân tích giải quyết những vấn đề pháp lý không chính thức, giúp cho người dân có thể đoán định được cách giải quyết mà không cần phải đưa tranh chấp ra Tòa án. Người dân trên cơ sở đoán định của trí tuệ nhân tạo có sau đó có thể tự thỏa thuận với nhau. Theo một nghiên cứu hàng năm, trong thế giới tranh chấp, 60 triệu bất đồng giữa các thương nhân eBay được giải quyết bằng cách sử dụng giải quyết tranh chấp trực tuyến trên Thay vì luật sư và thẩm phán - con số này nhiều gấp ba lần số vụ kiện được đệ trình mỗi năm trong toàn bộ hệ thống tòa án Hoa Kỳ [16].

* Tác động đến hoạt động đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND

Yêu cầu của cuộc cách mang công nghệp lần thứ tư đặt ra với công tác đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND là phải đào tạo, bồi dưỡng được nguồn nhân lực có năng lực tra cứu, cập nhật, so sánh đối chiếu các tình tiết pháp lý trong vụ án mà mình đang giải quyết phù hợp với các quy định pháp luật. Bên cạnh đó công nghệ công nghiệp lần thứ tư cũng làm nảy sinh nhiều tội phạm mới về công nghệ cao, nhiều quan hệ tranh chấp mới, vấn đề chứng cứ điện tử… Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển của hệ thống mạng internet, trí tuệ nhận tao…kết nối các nguồn lực mạng. Đặc biệt là trong công tác quản lý hồ sơ, tiếp cận văn bản số, xử lý, lưu trữ tài liệu, tra cứu, so sánh văn bản pháp luật…đòi hỏi các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND nói chung, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán trong thời gian tới cần có những kỹ năng về công nghệ thông tin phục vụ cho công tác nghiệp vụ của mình. Điều đó đặt ra những yêu cầu mới về đào tạo, bồi dưỡng về ứng dụng công nghệ thông tin cho các các danh tư pháp trong thời gian tới phải được chú trọng và nâng cao hơn nữa.

Cách mạng công nghiệp công nghiệp lần thứ tư còn tạo ra những phần mềm để người dân có thể so sánh đối chiếu khi có những tranh chấp cần Tòa án giải quyết. Do vậy cũng là cơ sở để ngăn ngừa các chủ thể tiến hành tố tụng có thể vi phạm khi giải quyết các vụ việc. Bên cạnh đó cũng đề ra yêu cầu đạo đức của  các công chức đảm nhiệm chức danh tư pháp nói chung, Thẩm phán nói riêng phải được nâng cao. Việc đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND không chỉ tại trường lớp mà đó còn là quá trình tự đào tạo, tự bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu của xã hội.

Những vấn đề trên đặt ra yêu cầu đối với các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND nói chung, đối với đội ngũ Thẩm nói nói riêng không những phải có năng lực giải áp dụng pháp luật, áp dụng án lệ… trong vấn đề giải quyết những vụ án đó. Đây là vấn đề mới đặt ra trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND trong tình hình mới.

5. Một số giải pháp xây dựng nền tư pháp công bằng, liêm chính, chuyên nghiệp, hiện đại

Một là, TANDTC cần quán triệt, nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và đề cao sự lãnh đạo của Đảng trong việc, đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo; xây dựng được nền tư pháp công bằng, liêm chính, chuyên nghiệp, hiện đại; hội nhập kinh tế quốc tế đến các cấp ủy đảng, các cơ quan tư pháp từ Trung ương đến địa phương. Cần quán triệt một số nội dung trọng tâm như: (i) Quan điểm của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đặc biệt là vị trí vai trò của đội ngũ giảng viên đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND để có chính sách đúng đắn nhằm phát triển đội ngũ giảng viên là yếu then chốt quyết định đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; (ii) Nhận thức lý luận và thực tiễn về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN. Đồng thời, cần xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án nhân dân. (iii) Làm rõ các tiêu chí “chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, văn minh, liêm chính. Rà soát, phát hiện những bất cập để sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014…tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tư pháp thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình, đặc biệt là hoạt động xét xử các vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà án, vì đây là trọng tâm của cải cách tư pháp.

Hai là, Nghiên cứu xây dựng hoàn thiện các cơ chế chính sách đối với đội ngũ cán bộ đảm nhiệm các chức danh tư pháp, đặc biệt là đội ngũ giảng viên, viên chức viên tham gia đào tạo các chức danh tư trong hệ thống Toà án. Đặc biệt, cần có cơ chế để các Giảng viên của Học viện Tòa án được tham gia vào các kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán, để các Giảng viên vừa làm công tác giảng dạy vừa tham gia công tác xét xử để gắn kết giữa lý luận và thực tiễn.

Ba là, Hoàn thiện pháp luật và các quy định về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đảm nhiệm các chức danh tư pháp trong hệ thống Toà án (Luật đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống Toà án) có năng lực đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của Toà án, đặc biệt là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về pháp luật quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế[17]. Huy động các nguồn lực cần và đủ cho hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trước hết tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tư pháp quốc gia thông qua việc nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng…

Xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND. Đây là nội dung đặt biệt quan trọng trước các yêu cầu: (i) Yêu cầu về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo; (ii) Yêu cầu xây dựng được nền tư pháp công bằng, liêm chính, chuyên nghiệp, hiện đại, (iii) Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; (iv) Yêu cầu của cuộc cách mang công nghiệp lần thứ tư, đặt ra đối với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp của hệ thống Toà án trong tình hình mới. Trong đó có những vấn đề đặc biệt quan trọng như: đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên tham gia đào tạo Thẩm phán và các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND. Đây là yếu tố “then chốt” quyết định đến chất lượng đội ngũ cán bộ đảm nhiệm chức danh tư pháp trong hệ thống Toà án nói chung, đội ngũ Thẩm phán nói riêng trong thời gian tới. Đào tạo đội ngũ Thẩm phán và các chức danh đáp ứng yêu cầu chuyên môn hóa nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu mới, đặc biệt là yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng… Trong đó, làm rõ nét mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng thế hệ Thẩm phán có kỹ năng giải quyết những vụ việc phổ biến thuộc thẩm quyền của TAND các cấp hiện nay, thì cần đặc biệt nhấn mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng được một đội ngũ Thẩm phán có trình độ ngoại ngữ, trình độ chuyên môn và kỹ năng giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế có tính chất phức tạp (để thực hiện được điều đó, thì Thẩm phán phải có trình độ ngoại ngữ, kiến thức nhất định về thương mại quốc tế để có thể đọc hiểu, thường xuyên cập nhật được án lệ quốc tế về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế…); Thẩm phán có kiến thức về tâm lý, giáo dục giải quyết những vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên (có bị cáo, bị hại… là người dưới 18 tuổi). Do vậy, phải xây dựng được các chương trình đào tạo Thẩm phán chuyên biệt, Thẩm phán hình sự, Thẩm phán dân sự, Thẩm phán hành chính (sơ cấp, trung cấp, cao cấp), có đội ngũ giảng viên giỏi về lý luận, có kỹ năng sư phạm và kỹ năng giải quyết các vụ việc trong thực tiễn… Tóm lại, việc đào tạo phải chuyên sâu, gắn với vị trí việc làm, năng lực, sở trường, đam mê cống hiến của người học.

Đối với nguồn đảm nhiệm các chức danh tiếp tục đổi mới cơ chế thu hút, tuyển chọn người có đủ tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức bản lĩnh nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm, kiến thức xã hội, khả năng ngoại ngữ vào nguồn thi tuyển, bổ nhiệm các chức danh tư pháp, đặc biệt là chức danh thẩm phán. Đối với các lĩnh vực phức tạp, mới cần có phương thức tạo nguồn bằng hình thức tuyển chọn cử nhân tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc của các trường đại học về ngoại ngữ, kinh tế quốc tế, kinh tế đối ngoại, tâm lý…để đào tạo văn bằng 2 Luật và tiếp tục đào tạo chuyên sâu về pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ của Tòa án. Sau khi hoàn thành chương trình đào tạo sẽ được bổ nhiệm chức danh Thư ký Tòa án. Đây là nguồn nhân lực có chất lượng cao vừa có kiến thức pháp luật, kiến thức chuyên môn về kinh tế, xã hội, tâm lý…, vừa có nghiệp vụ Tòa án. Đây là nguồn nhân lực để hệ thống TAND đào tạo, bồi dưỡng trở thành những Thẩm phán trong tương lai giải quyết các vấn đề tranh chấp thương mại quốc tế, các tòa chuyên trách của hệ thống TAND.

 


[1] Nghị quyết số 29 – NQ/TW, ngày 04 tháng 11 năm 2013, của Ban chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế

[2] Nghị quyết số 29 – NQ/TW, ngày 04 tháng 11 năm 2013, của Ban chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế

[3] Điều 102, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam

[4] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr. 59 - 60

[5] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 617, 664

[6] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Chính trị quốc gia, tr.135-136

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Chính trị quốc gia - Sự thật, t.1, tr.287.

[8] Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày2-6-2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

[9] Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày2-6-2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Chính trị quốc gia - Sự thật, t.1, tr.287.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Chính trị quốc gia - Sự thật, t.1, tr.287.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Chính trị quốc gia - Sự thật, t.1, tr.288

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Chính trị quốc gia - Sự thật, t.1, tr.177, 178.

[14] Xem từ điển larousse:   https://www.larousse.fr/encyclopedie/divers/intelligence_artificielle/187257, truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021

[15] PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình (Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao), “Quyết định tư pháp và đoán định tư pháp của người dân – Phạm trù pháp lý mới cần quan tâm trong thực tiễn pháp lý nước ta”, ngày 21/6/2019, Xem: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/quyet-dinh-tu-phap-va-doan-dinh-tu-phap-cua-nguoi-dan-pham-tru-phap-ly-moi-can-quan-tam-trong-thuc-tien-phap-ly-nuoc-ta, truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2019.

[16]  Richard Susskind and Daniel Susskind(Richard Susskind là Cố vấn CNTT cho Chánh án và Chủ tịch hội đồng cố vấn của Viện Internet Oxford. Daniel Susskind là một thành viên kinh tế tại Đại học Balliol, Oxford; trước đây, ông đã làm việc trong Đơn vị Chiến lược của Thủ tướng Anh),  “Technology Will Replace Many Doctors, Lawyers, and Other Professionals”, October 11, 2016, Xem: https://hbr.org/2016/10/robots-will-replace-doctors-lawyers-and-other-professionals, ngày truy cập 05 tháng 11 năm 2021

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Chính trị quốc gia - Sự thật, tr.135-136.

PGS.TS PHẠM MINH TUYÊN (Thẩm phán cao cấp, Giám đốc Học viện Toà án)