Giải pháp cấp bách bảo vệ động vật hoang dã, quý, hiếm ở Việt Nam

Hoạt động khai thác, săn bắt, mua bán, vận chuyển trái pháp luật động vật hoang dã, quý, hiếm ở Việt Nam diễn biến rất phức tạp, các đối tượng vi phạm luôn tìm các sơ hở của các cơ quan chức năng, dùng mọi thủ đoạn để vi phạm, nên cần có những giải pháp đồng bộ nhằm bảo vệ động vật hoang dã, quý, hiếm có hiệu quả cao hơn.

 1.Một số vấn đề chung

Nước ta có trên 70% diện tích là đồi núi, rừng nhiệt đới; là một trong các nước có tài nguyên rừng, có hệ động, thực vật, đa dạng sinh học cao trên thế giới. Một trong những đặc điểm về địa lý của nước ta rất đáng lưu ý có ảnh hưởng trực tiếp đến việc mua bán trái phép động vật hoang dã đó là nước ta tiếp giáp với các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia và Biển Đông với đường biên giới và bờ biển dài hàng ngàn cây số, không phải lúc nào, chỗ nào cơ quan chức năng cũng có thể kiểm soát được tất cả các hoạt động mua bán trái phép động vật hoang dã. Chính vì thế, đây là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động buôn bán trái pháp luật động vật hoang dã và các bộ phận cơ thể, sản phẩm của chúng, không những trong nội địa mà còn có các đường dây buôn bán trái pháp luật xuyên quốc gia bằng cả đường bộ, đường thủy và đường hàng không. Hoạt động khai thác, săn bắt, mua bán, vận chuyển trái pháp luật động vật hoang dã có nguồn gốc trong nước luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra cao, các đối tượng vi phạm luôn tìm các sơ hở của các cơ quan chức năng, dùng mọi thủ đoạn để vi phạm, săn bắt, mua bán trái phép động vật hoang dã.

Theo báo cáo của Cục Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Chỉ trong vòng hơn một năm “Tính từ 01/01/2018 đến 31/5/2019, lực lượng Kiểm lâm toàn quốc bắt giữ và xử lý 560 vụ vi phạm chế độ quản lý, bảo vệ động vật rừng. Trong đó lập hồ sơ xử lý hình sự 41 vụ với 38 bị can, đã truy tố xét xử 27 vụ với 27 bị cáo, mức án cao nhất là 7 năm 6 tháng tù giam; vật chứng tịch thu 945 cá thể và 15.761,92 kg động vật rừng, bộ phận cơ thể động vật rừng các loại. Lập hồ sơ xử lý hành chính 519 vụ; tang vật hành chính tịch thu 6.151 cá thể và 11.196,92 kg động vật rừng các loại; tổng số tiền tịch phạt hành chính là  4.211.991.000 đ”.

Theo đánh giá của các cơ quan chức năng, những năm qua, công tác quản lý bảo vệ rừng nói chung và việc quản lý, bảo vệ động vật hoang dã nói riêng đã có sự quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành và đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Số vụ vi phạm mua bán, vận chuyển các loài động vật, thực vật hoang dã giảm qua các năm. Tuy nhiên, tình hình vẫn có những diễn biến phức tạp, nhiều vụ có tính chất nghiêm trọng, thủ đoạn của đối tượng vi phạm ngày càng tinh vi, trang bị, phương tiện phạm pháp ngày càng hiện đại để đối phó với sự kiểm tra, kiểm soát của lực lượng Kiểm lâm và các lực lượng chức năng. Các vi phạm về săn bắt, mua bán, vận chuyển trái pháp luật động vật rừng thường xảy ra ở những địa phương còn nhiều rừng tự nhiên, nơi còn nhiều động, thực vật thuộc loài nguy cấp, quý, hiếm và những tỉnh giáp ranh biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc, Lào, Campuchia, nơi có các cửa khẩu quốc tế v.v…

Từ năm 1994, nước ta đã ký kết và trở thành viên của Công ước về mua bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm (Công ước CITES). Một số nội dung quan trọng của Công ước CITES đã được nội luật hóa như: Các loài động vật hoang dã thuộc Phụ lục I của Công ước (không phải loài thủy sinh) được đối xử như các loài động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm nhóm IB; các loài động vật hoang dã (không phải loài thủy sinh) thuộc Phụ lục II của Công ước được đối xử như các loài động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm nhóm IIB.

Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 có hai tội danh liên quan đến bảo vệ động vật hoang dã và bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm: Điều 234. Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã Điều 244. Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm. Bên cạnh đó, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp nước ta, BLHS quy định xử lý hình sự cả pháp nhân thương mại nếu phạm các tội này. Điều này chứng tỏ thái độ hết sức nghiêm khắc của Nhà nước đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã, quý hiếm. Cụ thể hóa BLHS và các đạo luật liên quan, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành hữu quan cũng đã ban hành nhiều nghị định, quyết định, thông tư… để quy định về chế độ quản lý, bảo vệ, quy định xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến động vật hoang dã, động vật rừng thuộc loài nguy cấp, quý hiếm…

Trong những năm qua, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (UBTP) rất quan tâm đến công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm và giám sát việc thực hiện pháp luật về lĩnh vực này. Năm 2018, UBTP đã phối hợp với Trung tâm giáo dục thiên nhiên (ENV) thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức khảo sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã tại các tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Tiếp đó, năm 2019, UBTP lại phối hợp với Tổ chức bảo vệ động vật hoang dã  WCS tiến hành khảo sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm tại 6 tỉnh (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Bình Phước, Đăk Nông và Lâm Đồng). Theo báo cáo của các cơ quan chức năng và kết quả giám sát, khảo sát, UBTP nhận thấy nổi lên một số tình hình đáng chú ý sau đây:

– Công tác phòng ngừa vi phạm về bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm về cơ bản đã được chính quyền và các cơ quan chức năng các địa phương quan tâm bằng việc ban hành nhiều bản kế hoạch liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi vi phạm liên quan đến quản lý, bảo vệ động vật hoang dã; kiểm soát, bảo tồn các loài động vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm; bảo tồn đa dạng sinh học trên địa bàn tỉnh.

– Công tác đấu tranh, xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm về bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm về cơ bản đã được các cơ quan Kiểm lâm, Công an, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân các địa phương thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, công tác phối hợp giữa các lực lượng nhằm phát hiện, truy bắt đối tượng có hành vi buôn bán, vận chuyển động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm chưa chặt chẽ, thiếu kịp thời nên số vụ phát hiện, xử lý còn ít. Số vụ vi phạm bị xử lý hình sự chưa nhiều, chủ yếu là xử lý hành chính.

– Công tác cứu hộ, bảo quản vật chứng là động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm tuy được các địa phương quan tâm nhưng có nhiều khó khăn vướng mắc cả về cơ chế và tổ chức thực hiện pháp luật. Phần lớn động vật hoang dã do bị bẫy, bắn, đánh thuốc, thậm chí có loài như tê tê còn bị nhồi bột đá để tăng trọng lượng nên khi bị lực lượng chức năng bắt giữ thì hầu hết chúng đều có thể trạng rất yếu, nếu không có phương tiện chuyên dùng, nhân viên cứu hộ có năng lực thì khả năng cứu sống rất hạn chế. Bên cạnh đó, cả nước chỉ có vài trung tâm cứu hộ động vật hoang dã lại ở rất xa nên việc vận chuyển đến nơi cứu hộ cũng ít khi làm được.

– Một số khó khăn, vướng mắc chủ yếu của công tác bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm có thể kể ra như sau:

+ Trong việc xử lý các vi phạm:

Hiện nay diện tích rừng tự nhiên, nơi cư trú của động vật hoang dã đã bị thu hẹp đáng kể, nhiều nơi về cơ bản không còn động vật hoang dã thuộc nhóm nguy cấp, quý, hiếm. Vì thế các hành vi vi phạm chủ yếu là mua bán, vận chuyển động vật hoang dã. Các đối tượng vi phạm ở địa bàn chủ yếu là người làm thuê, tiếp tay cho các đối tượng cầm đầu ở địa phương khác nên việc phát hiện, xử lý rất khó khăn. Việc thu giữ tang vật để trưng cầu giám định trong nhiều vụ việc không thực hiện được mà chỉ thu giữ được sổ sách ghi chép việc mua, bán thì không đủ cơ sở để xử lý. Việc chứng minh ý thức chủ quan của người vận chuyển gặp nhiều khó khăn (họ phải biết những loài động vật vận chuyển, mua bán là loài nguy cấp, quý, hiếm thì mới xử lý hình sự, còn không biết thì chỉ xem xét xử lý hành chính).

+ Trong công tác bảo quản vật chứng:

Do nguồn kinh phí được cấp hạn chế nên không đủ để phục vụ cho công tác chăm sóc, bảo quản sản phẩm động vật rừng, cứu hộ động vật rừng, giám định… Cơ quan Kiểm lâm các địa phương không có nhân viên chuyên về chăm sóc động vật rừng từ giai đoạn tạm giữ cho đến khi có quyết định xử lý; không có các tủ đông lạnh để bảo quản bộ phận hoặc sản phẩm động vật hoang dã nên rất dễ hư hỏng và gây ô nhiễm. Việc xác định loài, tình trạng sức khỏe ban đầu của một số loài động vật hoang dã của một số công chức Kiểm lâm chưa chính xác do cán bộ, công chức đa phần không được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực động vật rừng nên có phần lúng túng khi xử lý. Việc xử lý tang vật là động vật tươi sống phải chuyển đến cơ quan cứu hộ để phân loại chăm sóc bảo vệ để thả về môi trường tự nhiên, nhưng phần lớn động vật bị bắt giữ đều ốm, yếu và không xác định được nơi sinh sống trước khi bị bắt giữ, vận chuyển, buôn bán.

– Trong công tác giám định:

Hầu hết các tỉnh không có tổ chức giám định về mặt khoa học, một số địa phương chỉ có người giám định tư pháp theo vụ việc; việc giám định chủ yếu bằng kinh nghiệm; giám định khoa học (AND) chủ yếu phải đem đến giám định tại Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam ở Hà Nội. Vì thế việc đưa tang vật đi giám định gặp nhiều khó khăn trong khâu bảo quản, phương tiện vận chuyển; chi phí giám định lớn trong khi kinh phí điều tra vụ án còn hạn chế.

2.Một số kiến nghị và đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện những quy định mới của BLHS năm 2015 về bảo vệ động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm

Từ thực tế hoạt động giám sát, khảo sát về lĩnh vực này thời gian qua, xin có một số kiến nghị và đề xuất một số giải pháp như sau:

2.1.Một số kiến nghị và giải pháp chung

Một là: Các bộ, ngành, địa phương cần thường xuyên, tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, công chức, viên chức và người dân ý thức phòng, chống vi phạm và tội phạm; ý thức bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm. Trong vấn đề này, cần chú trọng các đối tượng là cán bộ, đảng viên vì trong thực tế các sản phẩm của động vật hoang dã rất đắt đỏ, càng quý hiếm càng đắt đỏ; các cán bộ, đảng viên có chức vụ, quyền hạn hoặc chủ động sử dụng, hoặc được các đối tác biếu hoặc mời sử dụng. Vì thế, nếu những người này nhận thức được nếu sử dụng là vi phạm pháp luật thì sẽ hạn chế sử dụng hoặc từ chối khi được mời, được biếu; từ đó lan tỏa ra xã hội. Trong một số hội thảo do UBTP tổ chức, một số ý kiến còn đề nghị cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước cần ra các chỉ thị về việc cấm cán bộ, đảng viên sử dụng các sản phẩm của động vật hoang dã.

Hai là: Các bộ, ngành, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thường xuyên tập huấn nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức pháp luật liên quan đến quy định của pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm nhằm cập nhật thông tin cho cán bộ thực thi nhiệm vụ phòng, chống vi phạm và tội phạm về bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm; hướng dẫn các quy định mới, quy trình mới của pháp luật tố tụng hành chính, tố tụng hình sự trong xử lý các vụ việc, vụ án liên quan đến động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương cập nhật thông tin và áp dụng pháp luật được thống nhất và chính xác.

Ba là: Tòa án nhân dân tối cao theo thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành các điều luật của BLHS, nhất là các nội dung nhằm xác định chính xác các hành vi phạm tội mà trong thực tế còn nhiều vướng mắc (sẽ đề xuất cụ thể ở phần sau). Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành các điều luật của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định về xử lý vật chứng là động vật hoang dã, nguy câp, quý, hiếm.

Bốn là: Chính phủ sớm sửa đổi các quy định quy định hiện hành, bảo đảm phù hợp với quy định của BLHS năm 2015 và các nghị định về danh mục động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm. Ban hành nghị định thống nhất về danh mục loài động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ thay thế Nghị định số  và Nghị định số 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý Loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ để tránh chồng chéo trong quá trình áp dụng pháp luật .

Năm là: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần chủ động lập và công bố danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc theo quy định tại Điều 18 và Điều 20 Luật Giám định tư pháp để kịp thời giám định các vụ việc vi phạm xảy ra trên địa bàn.

Sáu là: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công an, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hàng năm phải dự toán khoản kinh phí để phục vụ cho hoạt động giám định, tiêu hủy vật chất , chăm sóc, bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm là tang vật của các vụ việc vi phạm hành chính và vụ án hình sự trong quá trình chờ quyết định xử lý của cơ quan tố tụng. Bố trí khoản kinh phí hàng năm cấp cho các cơ quan quản lý chuyên ngành và các trung tâm cứu hộ động vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm để thực hiện công việc cứu hộ, bảo tồn, tái thả động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm thu giữ được từ hành vi vi phạm hành chính và tội phạm hình sự.

2.2.Một số kiến nghị và giải pháp cụ thể

Một là, về hướng dẫn cụ thể một số quy định của BLHS năm 2015 để có cơ sở xử lý các vi phạm trong thực tiễn:  

Đề nghị Tòa án nhân dân tối cao sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành BLHS năm 2015 về bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm với những nội dung cụ thể sau đây:

Thứ nhất, cần hướng dẫn cụ thể thế nào là cá thể, thế nào là bộ phậnbộ phận nào là bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống của động vật, vì trong thực tế còn có cách hiểu rất khác nhau của các cơ quan chức năng.

Thứ hai, cần quy định về số lượng từng cá thể động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm bị săn, bắt, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán để định khung hình phạt, nhất là trong trường hợp nếu thu giữ được nhiều loài động vật có cả chim, thú, bò sát thì xử lý như thế nào.

Thứ ba, cần quy định trọng lượng làm cách tính cho bộ phận và sản phẩm của tất cả động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm. Quy định hiện hành mới chỉ được cụ thể hóa cho sừng tê giác, ngà voi, hổ. Vậy nếu là bộ phận, sản phẩm các loài động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm khác thì sẽ tính thế nào, có định giá hay không định giá bộ phận, sản phẩm này?

Thứ tư, cần quy định rõ thời gian bị cấm săn bắt động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm là thời gian nào (trong thực tế, mùa sinh sản, tập quán di cư của các loài động vật khác nhau cũng rất khác nhau); quy định cụ thể phương tiện, ngư cụ bị cấm để khai thác thủy sản là những phương tiện, ngư cụ nào?

Hai là, về hướng dẫn quy định của  BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng là động vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm:

Đề nghị Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành  BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng là động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm. Theo cách làm hiện nay, nếu đợi đến khi có kết quả xét xử của Tòa án thì phần lớn vật chứng là động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm đã chết hoặc suy kiệt khó có thể trả về môi trường tự nhiên; với vật chứng là bộ phận cơ thể của động vật thì việc bảo quản cũng rất khó khăn, tốn kém. Mặc dù vấn đề này BLTTHS  năm 2015 đã quy định “d) Vật chứng là động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm và thực vật ngoại lai thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lỷ chuyên ngành có thẩm quyền xử lỷ theo quy định của pháp luật” (điểm d, khoản 3 Điều 106), tuy nhiên việc áp dụng còn nhiều khó khăn, bất cập như vừa nêu ở trên. Nếu theo quy định trên của BLTTHS năm 2015 thì thời điểm xử lý vật chứng đối với động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm là ngay sau khi có kết luận giám định. Tuy nhiên, đến nay chưa có văn bản nào quy định cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với tang vật là động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm, nên rất khó khăn trong việc bàn giao vật chứng. Vì vậy, để quy định này có thể thực hiện trên thực tế, cần phải có hướng dẫn cụ thể.

Trường hợp các cơ quan chức năng bắt được tang vật là động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm còn sống cần thực hiện theo quy định tại Thông tư 29/2019/TT-BNNPTNN ngày 31/12/2019 của Bộ Nông nghiêp và phát triển nông thôn quy định xử lý động vật rừng là tang vật, vật chứng; động vật rừng do tổ chức, cá nhân tự nguyện giao nộp Nhà nước và theo hướng cho phép các cơ quan chức năng nhanh chóng tổ chức giám định, sau đó chuyển cho cơ quan quản lý chuyên ngành để tái thả vào rừng hoặc giao cho các cơ quan cứu hộ sớm nhất. Trong trường hợp là sản phẩm, bộ phận của động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm thì sau khi giám định, cho phép chuyển giao cho cơ quan khoa học, trường đại học làm mẫu nghiên cứu hoặc cho phép tiêu hủy sớm để tránh gây ô nhiễm, tốn kém trong việc quản lý các sản phẩm và bộ phận đó.

Ba là, về giám định viên tư pháp theo vụ việc về động vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm:

Luật Giám định tư pháp quy định khá rõ về thẩm quyền của Bộ Nông nghiệp, Phát triển nông thôn và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc lập và công bố danh sách về người giám định tư pháp theo vụ việc về động vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm nhưng qua khảo sát thấy hầu hết các địa phương không chủ động thực hiện quy định này. Việc tại địa phương không có người làm công tác giám định thuộc lĩnh vực này dẫn đến hệ quả là khi có vụ việc xảy ra trên địa bàn, cơ quan tư pháp phải trưng cầu giám định ở các cơ quan giám định trung ương, vừa xa xôi, vừa tốn kém; thậm chí khi có kết quả giám định thì động vật hoang dã đã chết… Vì vậy đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cần chủ động lập và công bố danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc về động vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm. Lực lượng này có thể lấy từ những người đã từng hoạt động trong lĩnh vực này có chuyên môn, có kinh nghiệm thực tế đang cư trú ở địa phương.

Bốn là, Các cơ quan tiến hành tố tụng cần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác điều tra, xử lý tội phạm và các vi phạm pháp luật về bảo tồn các loài động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm:

Qua làm việc với các cơ quan hữu quan, có thể nói về địa bàn, quy luật của tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm đã được các cơ quan chức năng nắm khá chắc. Vấn đề còn lại là sự quyết tâm của các cơ quan, đơn vị mà thôi. Vì vậy, đề nghị trong thời gian tới, cơ quan kiểm lâm và các cơ quan tiến hành tố tụng cần làm tốt một số yêu cầu sau đây:

Thứ nhất, cần xác định cụ thể các tuyến, địa bàn, đối tượng trọng điểm. Theo đó, cần tập trung các tuyến cửa khẩu hàng không, cảng biển, đường bộ quốc tế, đường mòn lối mở qua biên giới; các tụ điểm buôn bán trái phép mẫu vật loài hoang dã bao gồm cả mẫu vật giả ở khu vực biên giới và trong thị trường nội địa; các đối tượng người nước ngoài, người Việt Nam định cư, công tác, du lịch tại các nước châu Phi, để áp dụng các biện pháp nghiệp vụ đấu tranh xử lý với các loại tội phạm.

Thứ hai, cần tổ chức đấu tranh, triệt phá các đường dây tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia trong việc mua bán, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, quảng cáo, tiêu dùng trái phép mẫu vật động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm, đặc biệt là mẫu vật tê giác và voi từ các nước châu Phi.

Thứ ba, khi có vụ việc xảy ra trên địa bàn, các cơ quan tiến hành tố tụng cần đẩy nhanh tiến độ điều tra đối với các vụ án vi phạm về bảo tồn động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm, nhanh chóng thu thập tài chứng cứ để chứng minh tội phạm, phối hợp với các cơ quan tư pháp xử lý nghiêm trước pháp luật.

Thứ tư, cần phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng: Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng, An ninh hàng không, Cơ quan quản lý CITES Việt Nam, INTERPOL, ASEAN-WEN… để kịp thời trao đổi thông tin về các đối tượng, đường dây, tổ chức có biểu hiện hoạt động mua bán, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, quảng cáo, tiêu dùng trái phép mẫu vật động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm; tổ chức phát hiện, ngăn chặn, điều tra, xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Thứ năm, các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật về bảo tồn động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm. Phối hợp với các cơ quan ngoại giao, cơ quan Cảnh sát các nước và các tổ chức phi chính phủ về bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm; tổ chức và tham gia các chiến dịch bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm. Tham gia và tổ chức các hội thảo, tập huấn luật pháp quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật, chiến thuật điều tra các tội phạm về buôn bán trái phép động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm. Nhà nước cần tăng cường ký kết hiệp định tương trợ tư pháp và đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế với các quốc gia khác trên thế giới trong việc xử lý tội phạm về động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm.

Hổ, voi châu Á, rùa nước ngọt và gỗ trắc là 4 loài mục tiêu mà Dự án WCS hướng đến bảo tồn 

NGUYỄN VĂN PHA - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội