Hoàn thiện quy định về biện pháp bắt, tạm giam trong Bộ luật Tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

Bài viết tập trung phân tích quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp bắt, tạm giam; đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về các biện pháp này. Trên cơ sở phân tích quy định về các biện pháp bắt, tạm giam của pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới, bài viết đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp bắt, tạm giam.

Dẫn nhập

Biện pháp ngăn chặn là một chế định quan trọng được quy định tại Chương VII “Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế” của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS năm 2015). Các biện pháp này góp phần ngăn chặn tội phạm và ngăn ngừa những hành vi gây khó khăn, cản trở đối với quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, việc áp dụng những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự sẽ tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền con người, quyền cơ bản của công dân như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại... Biện pháp bắt, tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc.

Việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2015 sẽ xâm phạm trực tiếp đến thân thể, quyền tự do đi lại của người bị buộc tội nên được pháp luật tố tụng hình sự quy định chặt chẽ, phù hợp với các yêu cầu của các Công ước quốc tế, như: Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện[1], trong đó nêu rằng, không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tuỳ tiện; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị quy định quyền này gồm các nội dung: (i) Mọi người đều có quyền hưởng tự do an toàn cá nhân, không ai bị tước tự do trừ trường hợp việc tước tự do đó là có lý do và theo đúng thủ tục mà luật pháp quy định; (ii) Bất cứ người nào bị bắt đều phải được thông báo về lý do họ bị bắt và phải được thông báo không chậm trễ về sự buộc tội đối với họ; (iii) Bất cứ người nào bị bắt đều phải được đưa ra trước cơ quan tài phán có thẩm quyền và xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc trả tự do[2].

Thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2015 thời gian qua cho thấy, còn một số hạn chế, vướng mắc về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, nhất là biện pháp bắt, tạm giam. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất và cũng được áp dụng phổ biến trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn (ngay cả đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi). Các biện pháp không mang tính giam giữ như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm chiếm tỷ lệ áp dụng thấp.

Tiếp tục thực hiện, đẩy mạnh hơn công cuộc cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới đã được nêu trong các văn kiện của Đảng, như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020[3]; Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020[4]; Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng[5] và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng[6]; đồng thời bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, phù hợp với xu thế phát triển chung của nhiều nước trên thế giới, việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện các quy định của BLTTHS về biện pháp bắt, tạm giam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp bắt, tạm giam

Biện pháp bắt, tạm giam ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do thân thể của con người nên được quy định rất chặt chẽ. BLTTHS năm 2015 quy định 05 trường hợp bắt người, gồm: Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị yêu cầu dẫn độ.

Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất được quy định trong BLTTHS năm 2015 do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ rằng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội và để bảo đảm cho việc thi hành án. So với BLTTHS năm 2003, biện pháp tạm giam được quy định trong BLTTHS năm 2015 đã có những điểm tiến bộ nhất định như có sự chặt chẽ hơn về căn cứ tạm giam, từ đó bảo đảm tốt hơn quyền của bị can, bị cáo trong quá trình tham gia tố tụng.

1.1. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam

Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS năm 2015 thì các biện pháp ngăn chặn, bao gồm biện pháp tạm giam được áp dụng để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án.

1.2. Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam

Theo quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2015, đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam bao gồm bị can và bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự năm 2015 (sau đây gọi là BLHS) quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp: a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm thì có thể áp dụng biện pháp tạm giam nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

Biện pháp tạm giam có thể được áp dụng từ khi có quyết định khởi tố bị can cho đến khi có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, không phải mọi bị can, bị cáo đều bị tạm giam. Việc quyết định có áp dụng hay không áp dụng biện pháp này còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác như loại tội phạm, mức hình phạt, tính chất, mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã hội, mục đích áp dụng và tính nhân đạo đối với đối tượng bị áp dụng.

BLTTHS năm 2015 quy định hạn chế tạm giam đối với một số chủ thể bao gồm: phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng. Theo đó, những đối tượng này khi thuộc các trường hợp có thể tạm giam thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam mà bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác ít bị hạn chế quyền tự do hơn như biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú,… trừ một số trường hợp được quy định tại khoản 4 Điều 119 BLTTHS năm 2015 có khả năng gây cản trở quá trình giải quyết vụ án.

1.3. Thời hạn tạm giam

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất nên thời hạn áp dụng cũng được quy định chặt chẽ và tương ứng trong từng giai đoạn tố tụng. Nếu ở giai đoạn điều tra, truy tố và chuẩn bị xét xử sơ thẩm, việc quy định thời hạn tạm giam tùy thuộc vào từng loại tội phạm thì ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, thời hạn tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và thời hạn tạm giam để bảo đảm thi hành án căn cứ vào cấp Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.

1.4. Thẩm quyền áp dụng

Thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam được quy định như sau: a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; c) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.

Lệnh tạm giam của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn. Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam làm việc, học tập biết.

1.5. Hủy bỏ biện pháp tạm giam

Điều 125 BLTTHS năm 2015 quy định những trường hợp bắt buộc (đương nhiên) và tùy nghi (xét thấy cần thiết) trong việc hủy bỏ biện pháp tạm giam. Theo đó, những trường hợp bắt buộc mà cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam là khi có: Quyết định không khởi tố vụ án hình sự; quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can; trường hợp bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ. Tuy nhiên, như thế nào được xem là những trường hợp “xét thấy cần thiết” để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì pháp luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể mà tùy thuộc nhận định của cơ quan có thẩm quyền.

2. Những hạn chế, bất cập trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp bắt, tạm giam

2.1. Về căn cứ áp dụng biện pháp bắt, tạm giam

Theo quy định tại khoản 1 Điều 109 BLTTHS năm 2015, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ được phép áp dụng biện pháp ngăn chặn khi có các căn cứ sau: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm; khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có căn cứ cho rằng họ sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án. Việc quy định căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án” là chưa phù hợp vì đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn được nêu trong căn cứ này là “người bị buộc tội”; trong khi căn cứ “để bảo đảm thi hành án” không chỉ áp dụng đối với người bị buộc tội mà còn áp dụng với đối tượng là người bị kết án. Căn cứ “để bảo đảm thi hành án” là một trong các căn cứ để áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, biện pháp tạm giam và một số biện pháp ngăn chặn khác. Cụ thể, khoản 2 Điều 329 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trường hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị xử phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam để chấp hành hình phạt khi bản án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, đối tượng áp dụng biện pháp bắt tạm giam khi bản án đã có hiệu lực pháp luật phải là người bị kết án chứ khi đó đối tượng không còn là bị cáo nữa.

Khoản 3: Điều 347 BLTTHS năm 2015 quy định “Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng bị xử phạt tù thì Hội đồng xét xử có thể ra quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án”. Bản án của Tòa án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án nên việc áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp này áp dụng với người bị kết án phạt tù chứ không phải là với bị cáo. Mặt khác, theo quy định tại Điều 391 BLTTHS năm 2015, ở giai đoạn xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Hội đồng giám đốc thẩm cũng có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn với người đã bị kết án khi có căn cứ cho rằng cần phải tiếp tục tạm giam họ. Do vậy, với tính chất là một điều luật quy định căn cứ chung áp dụng cho tất cả các biện pháp ngăn chặn, nếu khoản 1 Điều 109 chưa quy định về căn cứ áp dụng đối với người bị kết án nhằm bảo đảm thi hành án thì việc quy định về việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với người bị kết án ở giai đoạn xét xử và giai đoạn xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật như quy định tại Điều 329, Điều 347 và Điều 391 BLTTHS năm 2015 là chưa phù hợp và chưa bảo đảm tính thống nhất.

2.2. Về đối tượng áp dụng biện pháp bắt, tạm giam

Theo quy định tại Điều 113, Điều 119 BLTTHS năm 2015, đối tượng áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam và biện pháp tạm giam là bị can, bị cáo (người đã bị khởi tố về hình sự). Tuy nhiên, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 329, khoản 3 Điều 347 và Điều 391 BLTTHS năm 2015, đối tượng áp dụng biện pháp này không chỉ là bị can, bị cáo mà còn bao gồm cả người bị kết án.

Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn quy định hạn chế tạm giam đối với người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng. Tuy vậy, khái niệm “người già yếu” và “người bị bệnh nặng” vẫn chưa được giải thích rõ ràng. Thay vào đó, chỉ có khái niệm “người quá già yếu” được hướng dẫn trong các văn bản quy phạm pháp luật của liên ngành Trung ương. Một số văn bản quy phạm pháp luật khác thì có khái niệm “người mắc bệnh hiểm nghèo”. Các khái niệm không thống nhất, chưa được giải thích rõ ràng là thiếu sót, dẫn tới việc cơ quan tiến hành tố tụng có thể đánh giá thiếu chính xác trong thực tiễn áp dụng.

2.3. Về thẩm quyền áp dụng

Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, “Người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bao gồm bị can; bị cáo; người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ”. Biện pháp tạm giam có thể áp dụng đối với cả người bị kết án nên việc quy định thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam như quy định của BLTTHS năm 2015 còn chưa phù hợp, cụ thể: theo Điều 119 BLTTHS năm 2015, những người có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam bao gồm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án và Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, căn cứ quy định tại Điều 391, chủ thể áp dụng biện pháp tạm giam còn có Hội đồng giám đốc thẩm. Có ý kiến cho rằng, việc quy định Hội đồng xét xử có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam đã bao gồm cả Hội đồng giám đốc thẩm nên không cần phải quy định thêm chủ thể là Hội đồng giám đốc thẩm nữa. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử. Việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm mang tính chất kiểm tra, xem xét tính hợp pháp trong quá trình giải quyết vụ án, phát hiện những vi phạm pháp luật để khắc phục, bảo đảm tính hợp pháp của các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, không phải thủ tục xét xử. Vì vậy, không thể đồng nhất thuật ngữ Hội đồng xét xử với Hội đồng giám đốc thẩm trong quy định về thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam.

2.4. Về việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp tạm giam

Khoản 2 Điều 125 BLTTHS năm 2015 quy định: khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác thì cơ quan tiến hành tố tụng cũng có thể hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đang áp dụng. Tuy nhiên, với trường hợp tạm đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án, hiện nay chưa có quy định rõ các biện pháp ngăn chặn đang áp dụng đối với bị can, bị cáo sẽ được xử lý như thế nào.

Vấn đề đặt ra là lệnh bắt bị can để tạm giam vẫn còn tồn tại trong hồ sơ vụ án sẽ được giải quyết như thế nào? Rõ ràng, lệnh bắt bị can để tạm giam trong hồ sơ đó bị rơi vào tình trạng pháp lý “lơ lửng”, không có quyết định hủy bỏ, cũng không có quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn khác. Để giải quyết vướng mắc này, việc bổ sung quy định về việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đang áp dụng đối với trường hợp tạm đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ điều tra đối với bị can, tạm đình chỉ vụ án đối với bị can là rất cần thiết.

2.5. Về việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giam người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi

Biện pháp bắt, tạm giam là những biện pháp mang tính cưỡng chế nghiêm khắc, mục đích của việc áp dụng các biện pháp này là nhằm bảo đảm hiệu quả của các hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, một trong những đặc điểm của các biện pháp này là tính “lựa chọn” khi áp dụng, có nghĩa là có cần thiết áp dụng hay không, nếu cần thiết thì biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế nào sẽ được áp dụng. Vì thế, không phải trong mọi trường hợp khi có hành vi phạm tội xảy ra, biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đều được áp dụng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, nhất là nhóm người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi. Điều 419 BLTTHS năm 2015 vẫn còn mang tính chung chung “chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết”, “Chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả”; ngoài ra, thời hạn tạm giam chưa thể hiện được sự phân hóa theo nhóm tuổi trong quy định của BLHS. Bên cạnh đó, các biện pháp ngăn chặn khác như: đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú… chưa được đề cập trong Điều 419 BLTTHS năm 2015 dành riêng cho người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.

3. Quy định về các biện pháp bắt, tạm giam của pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới

Chế định các biện pháp ngăn chặn là một chế định quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự. Việc quy định và áp dụng một cách đúng đắn, chính xác các biện pháp ngăn chặn là bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của tố tụng hình sự để phát hiện chính xác, nhanh chóng, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với kẻ phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Do đó, pháp luật tố tụng hình sự của các nước trên thế giới đều có quy định về các biện pháp ngăn chặn, bao gồm cả biện pháp bắt, tạm giam.

3.1. Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Đức

Ở Đức, biện pháp tạm giam là một trong những biện pháp cưỡng chế được quy định trong BLTTHS. Đây cũng là biện pháp nghiêm khắc nhất trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế, được áp dụng bởi Tòa án có thẩm quyền từ những giai đoạn đầu của quá trình giải quyết vụ án, từ khi người bị buộc tội tham gia tố tụng với tư cách là người bị tình nghi thực hiện tội phạm.

3.1.1. Đối tượng áp dụng và hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam

Đối tượng thứ nhất có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam là người bị nghi ngờ xác đáng về việc thực hiện tội phạm và phải có căn cứ để bắt giữ. Tuy nhiên, lệnh tạm giam sẽ không được đặt ra nếu không tương xứng với tính chất của vụ án hoặc hình phạt hoặc các biện pháp cải tạo và phòng ngừa (quyết định về án treo và cảnh cáo, hoãn thi hành phần còn lại của bản án phạt tù, hoãn thi hành án phạt tù)[7] dự kiến được áp dụng[8]. Hai đối tượng kế tiếp có thể áp dụng biện pháp này là bị can – người đã có quyết định truy tố và bị cáo – người đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử[9]. Bên cạnh đó, BLTTHS Đức cũng quy định các trường hợp hạn chế tạm giam, theo đó, những người không thỏa mãn các điều kiện hạn chế tạm giam sẽ không bị áp dụng biện pháp này trừ một số trường hợp luật định. Cụ thể, những đối tượng bị nghi ngờ xác đáng về việc thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo không bị áp dụng biện pháp tạm giam là những người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng (các hành vi trái pháp luật với mức hình phạt thấp hơn một năm tù hoặc hình phạt tiền)[10] đến 6 tháng tù hoặc phạt tiền đến 180 đơn vị tính theo ngày. Tuy nhiên, hạn chế này không áp dụng đối với trường hợp khi bị can trước đó đã trốn tránh pháp luật hoặc đã chuẩn bị cho việc bỏ trốn; hoặc bị can không có nơi ở cố định hoặc nơi cư trú trong phạm vi lãnh thổ theo quy định của Luật này, hoặc bị can không thể khai báo danh tính của mình[11].

3.1.2. Về căn cứ bắt và tạm giam

Theo quy định của Điều 112 BLTTHS Đức, biện pháp tạm giam có thể được áp dụng đối với người bị buộc tội nếu có đủ 2 điều kiện, một là có chứng cứ để nghi ngờ người đó phạm tội và hai là có căn cứ để bắt. Biện pháp này có thể không được áp dụng nếu nó không tương xứng với tính chất của vụ án hoặc hình phạt hay biện pháp cải tạo và phòng ngừa có thể sẽ được áp dụng (trường hợp này, các căn cứ cho việc không áp dụng biện pháp tạm giam phải được nêu rõ). Việc bắt người bị buộc tội để tạm giam có thể được tiến hành nếu có các căn cứ: (1) Xác định người bị buộc tội đã bỏ trốn hoặc có nguy cơ bỏ trốn; (2) Xác định người bị tình nghi sẽ phá huỷ, thay đổi, di chuyển, giấu hoặc làm giả chứng cứ; tác động không đúng đắn tới đồng phạm, nhân chứng, chuyên gia hoặc khiến người khác thực hiện những hành vi này.

Tuy nhiên, có một số trường hợp, dù không có căn cứ bắt giữ nhưng người bị buộc tội vẫn có thể bị tạm giam khi: (1) Có căn cứ rõ ràng để nghi ngờ người đó phạm tội tại Điều 308 Bộ luật Hình sự Đức (khoản 1, 2, 3 – Tội phạm về cháy nổ) nhằm thực hiện các hành vi diệt chủng tại điểm 1 khoản 1 Điều 6 Bộ luật những tội phạm chống lại Luật quốc tế; hoặc (2) Phạm tội tại khoản 1, 2 Điều 129a, khoản 1 Điều 129b (liên quan đến việc thành lập các tổ chức khủng bố), Điều 211 (Tội giết người trong những trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự), Điều 212 (Tội giết người không thuộc các trường hợp tại Điều 211), Điều 226 (Tội gây ra những tổn thương trên cơ thể), Điều 306b, 306c Bộ luật Hình sự Đức (liên quan đến tội làm hỏa hoạn). Theo đó, trong lệnh bắt cũng phải ghi rõ các tình tiết dẫn tới sự nghi ngờ về tội phạm và căn cứ cho việc bắt, trừ khi việc đó ảnh hưởng tới an ninh quốc gia[12].

Một số căn cứ khác cho việc bắt giữ cũng được quy định tại Điều 112a BLTTHS Đức là khi có căn cứ xác đáng để nghi ngờ rằng bị can sẽ thực hiện một số tội phạm được liệt kê tại điều luật này và nếu có căn cứ cho thấy khả năng trước khi có bản án kết tội, người đó sẽ thực hiện tiếp những tội phạm nghiêm trọng tương tự hoặc sẽ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội và việc tạm giam là cần thiết để ngăn ngừa sự nguy hiểm sắp xảy ra. Tuy nhiên, những căn cứ bắt giữ tại Điều 112 sẽ được ưu tiên áp dụng trước. Như đã đề cập, một số căn cứ được quy định tại khoản 2 Điều 113 BLTTHS Đức cũng có thể được áp dụng đối với những đối tượng phạm tội ít nghiêm trọng đến 06 tháng tù hay phạt tiền đến 180 đơn vị tính theo ngày.

Ngoài ra, theo quy định của khoản 4 Điều 116 BLTTHS Đức, sau khi có quyết định đình chỉ thi hành lệnh bắt nhưng người bị buộc tội vi phạm một số căn cứ thì lệnh bắt sẽ được áp dụng lại kèm theo việc tạm giam. Những vi phạm đó có thể xuất phát từ việc bị can vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ và các hạn chế được áp dụng đối với họ; bị can chuẩn bị bỏ trốn, vắng mặt không có lý do chính đáng khi được triệu tập, hoặc có biểu hiện khác khiến cơ quan có thẩm quyền mất niềm tin vào họ; hoặc có những tình tiết mới khiến cho việc bắt là cần thiết.

3.1.3. Thời hạn tạm giam

Ở Cộng hòa Liên bang Đức, như đã đề cập, tạm giam có thể được áp dụng đối với người bị tình nghi thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo và luôn gắn liền với các căn cứ bắt giữ. Như vậy, có thể thấy tạm giam được áp dụng ngay từ những giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, từ khi xuất hiện tư cách người bị tình nghi thực hiện tội phạm và kéo dài suốt quá trình này. Điều 121 BLTTHS Đức quy định, trong trường hợp bản án chưa được tuyên về việc quyết định hình phạt tù hoặc cải tạo giam giữ thì thời hạn tạm giam nhiều hơn 06 tháng đối với một hành vi phạm tội sẽ chỉ được áp dụng trong trường hợp việc điều tra có khó khăn đặc biệt hoặc kéo dài bất thường hoặc vì một số lý do quan trọng khác mà việc tuyên án bị cản trở và có cơ sở cho việc tiếp tục tạm giam. Tuy nhiên, trong trường hợp này, thời hạn tạm giam sẽ không kéo dài hơn 01 năm nếu thuộc những căn cứ khác cho việc bắt giữ tại Điều 112a BLTTHS Đức[13]. Trường hợp Tòa án khu vực cấp trên ra lệnh tiếp tục tạm giam thì biện pháp tạm giam tiếp tục được áp dụng và Tòa án khu vực cấp trên sẽ có thẩm quyền cho tới khi bản án được tuyên[14]. Như vậy, biện pháp tạm giam được áp dụng thông thường dưới 06 tháng, nhưng trong một số trường hợp ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án thì biện pháp này có thể được kéo dài đến 01 năm, đặc biệt Tòa án khu vực cấp trên có quyền kéo dài thời hạn tạm giam cho đến khi bản án được tuyên, tức là trên 01 năm.

3.1.4. Về thẩm quyền và thủ tục bắt, tạm giam

Theo quy định tại Điều 114 BLTTHS Đức, việc tạm giam sẽ do Thẩm phán quyết định bằng một lệnh bắt. Điều 125 BLTTHS Đức quy định, trước khi có quyết định khởi tố, Thẩm phán của Tòa án địa phương nơi có thẩm quyền xét xử hoặc nơi bị can đang sinh sống sẽ ra lệnh bắt căn cứ vào đề nghị của Cơ quan công tố; trong trường hợp khẩn cấp, Thẩm phán tự ra quyết định bắt. Sau khi đã truy tố, lệnh bắt sẽ được ban hành bởi Tòa án thụ lý vụ án. Trường hợp đã có kháng cáo, lệnh bắt sẽ do Tòa án có bản án bị kháng cáo quyết định. Trong trường hợp khẩn cấp, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể ra lệnh bắt.

Lệnh bắt phải ghi rõ các nội dung: thông tin về bị can; hành vi phạm tội mà bị can bị cho là đã thực hiện, thời gian và địa điểm thực hiện, các yếu tố cấu thành tội phạm và điều khoản luật hình sự áp dụng; các tình tiết dẫn tới sự nghi ngờ về tội phạm và căn cứ cho việc bắt, trừ khi việc đó ảnh hưởng tới an ninh quốc gia.

Bị can sẽ được thông báo về nội dung của lệnh bắt tại thời điểm bị bắt. Nếu không thể thực hiện được việc thông báo cho bị can theo quy định này thì bị can phải được thông báo sơ bộ về tội danh mà anh ta bị nghi ngờ là đã phạm phải. Trong trường hợp này, bị can phải được thông báo về nội dung của lệnh bắt ngay sau đó và phải được cung cấp một bản sao của lệnh bắt.

Thẩm phán đã ra lệnh bắt và tạm giam bị can phải thông báo cho một người thân thích của bị can hoặc người mà bị can tin tưởng về việc bắt bị can và các quyết định khác có liên quan đến việc tiếp tục giam bị can. Ngoài ra, chính bản thân người bị bắt phải được tạo điều kiện để trực tiếp thông báo cho một người thân hoặc người mà họ tin tưởng về việc họ bị bắt với điều kiện không làm ảnh hưởng tới mục đích của việc điều tra.

Bị can bị bắt theo lệnh bắt của Thẩm phán ngay lập tức sẽ được đưa tới Thẩm phán có thẩm quyền. Thẩm phán sẽ xem xét việc buộc tội bị can ngay sau khi bắt, trường hợp chậm nhất là vào ngày sau ngày bắt. Trong quá trình Thẩm phán xem xét, các yếu tố buộc tội sẽ phải được thông báo cho bị can, bị can phải được thông báo về quyền của họ trong việc phản đối lại lời buộc tội hoặc giữ im lặng. Bị can được tạo điều kiện đưa ra căn cứ bác bỏ việc nghi ngờ, việc bắt người và đưa ra những tình tiết có lợi cho mình. Nếu tiếp tục tạm giam bị can thì bị can phải được thông báo về quyền khiếu nại cũng như các quyền khác mà pháp luật quy định (ví dụ: quyền yêu cầu Tòa án xem xét việc huỷ bỏ lệnh bắt hoặc đình chỉ việc thi hành lệnh bắt theo khoản 1 Điều 117; quyền yêu cầu Tòa án xem xét lại việc tạm giam theo khoản 1 và khoản 2 Điều 118).

Trong trường hợp chậm nhất vào ngày sau ngày Thẩm phán ra lệnh bắt mà vẫn không thể thực hiện được việc đưa bị can tới Thẩm phán có thẩm quyền, thì phải đưa ngay bị can tới Thẩm phán của Tòa án địa phương nơi gần nhất, không chậm hơn ngày sau ngày bắt bị can. Thẩm phán của Tòa án địa phương nơi gần nhất sẽ tiến hành xem xét ngay lập tức trường hợp của bị can, không chậm hơn ngày tiếp theo. Nếu qua xem xét cho thấy lệnh bắt đã bị huỷ bỏ hoặc người bị bắt không phải là người được xác định trong lệnh thì phải trả tự do cho người bị bắt. Nếu người bị bắt phản đối lệnh bắt hoặc việc thi hành lệnh bắt mà việc phản đối không phải là không có cơ sở; hoặc có nghi ngờ về sự cần thiết của việc tiếp tục tạm giam bị can, thì Thẩm phán của Tòa án địa phương nơi gần nhất đang xem xét vụ việc phải thông báo ngay cho Thẩm phán có thẩm quyền về việc đó qua các phương tiện nhanh nhất sẵn có. Nếu đã có quyết định khởi tố đối với người bị bắt, người đó sẽ được đưa tới Tòa án có thẩm quyền ngay lập tức hoặc căn cứ vào yêu cầu của Thẩm phán đã xem xét trường hợp đó lần đầu tiên, chậm nhất là ngày sau ngày bị bắt, Tòa án sẽ phải ra quyết định trả tự do, tạm giam hoặc tạm thời đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với người bị bắt.

3.1.5. Về đình chỉ thi hành lệnh bắt

Theo quy định tại Điều 116 BLTTHS Đức, việc đình chỉ thi hành lệnh bắt của Thẩm phán được thực hiện trong các trường hợp sau đây:

- Trường hợp Thẩm phán ra lệnh bắt và tạm giam bị can chỉ vì lý do dựa trên khả năng bị can bỏ trốn, thì Thẩm phán phải đình chỉ thi hành lệnh bắt nếu có các biện pháp ít nghiêm khắc hơn đủ để bảo đảm cho mục đích của việc tạm giam (tức là mục đích ngăn chặn việc bị can bỏ trốn). Cụ thể, có thể xem xét áp dụng các biện pháp sau đây:

+ Yêu cầu phải báo cáo tại những thời điểm nhất định với Văn phòng của Thẩm phán, cơ quan Công tố hoặc với một cơ quan nào đó do Tòa án quy định;

+ Yêu cầu không được rời khỏi nơi cư trú hoặc một địa điểm nhất định mà không được phép của Thẩm phán hoặc cơ quan Công tố;

+ Yêu cầu không được rời khỏi nhà riêng, trừ khi dưới sự giám sát của người được chỉ định;

+ Thực hiện các biện pháp an ninh phù hợp.

- Trường hợp Thẩm phán ra lệnh bắt bị can vì lý do có khả năng gây khó khăn cho việc thu thập chứng cứ, Thẩm phán cũng có thể đình chỉ thi hành lệnh bắt đó nếu có các biện pháp ít nghiêm khắc hơn bảo đảm làm giảm đáng kể khả năng gây khó khăn cho việc thu thập chứng cứ. Đặc biệt, Thẩm phán có thể áp dụng biện pháp yêu cầu bị can không tiếp xúc với đồng phạm, nhân chứng hoặc chuyên gia.

- Trường hợp Thẩm phán ra lệnh bắt vì có các căn cứ theo quy định tại Điều 112a BLTTHS Đức, Thẩm phán có thể đình chỉ thi hành lệnh bắt đó với điều kiện có căn cứ cho rằng bị can sẽ tuân thủ các yêu cầu nhất định và mục đích của việc tạm giam sẽ đạt được.

Ngoài ra, Điều 116b BLTTHS Đức còn quy định việc đình chỉ thi hành lệnh bắt tạm giam vì có đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm.

3.1.6. Hủy bỏ biện pháp tạm giam

Theo quy định của BLTTHS Đức, việc hủy bỏ biện pháp tạm giam được thực hiện thông qua quyết định đình chỉ thi hành lệnh bắt nếu có sự đồng ý của cơ quan công tố hoặc quyết định hủy bỏ lệnh bắt của Tòa án. Quyết định đình chỉ thi hành lệnh bắt sẽ được Thẩm phán áp dụng nếu có các biện pháp ít nghiêm khắc hơn đủ để bảo đảm cho mục đích của việc tạm giam và có căn cứ cho rằng, bị can sẽ tuân thủ các yêu cầu nhất định; hoặc các biện pháp này có khả năng làm giảm đáng kể những khó khăn của việc thu thập chứng cứ; hoặc bị can có đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm[15].

Quyết định hủy bỏ lệnh bắt của Tòa án được ban hành khi không còn các căn cứ cho việc tạm giam hoặc nếu việc tiếp tục tạm giam không còn phù hợp với tính chất của vụ án, không còn tương xứng với những hình phạt dự kiến và với các biện pháp cải tạo, phòng ngừa. Lệnh bắt cũng sẽ được huỷ bỏ nếu cơ quan công tố có đề nghị trước khi có quyết định khởi tố vụ án. Lệnh bắt sẽ bị huỷ bỏ nếu bị cáo được tuyên vô tội; không thể mở phiên tòa hoặc nếu thủ tục tố tụng bị đình chỉ[16]. Việc hủy bỏ lệnh bắt hoặc đình chỉ thi hành lệnh bắt còn được xem xét dựa trên yêu cầu của người bị buộc tội ở bất cứ thời điểm nào trong quá trình bị tạm giam[17].

(Còn nữa)

Điều tra viên Công an huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế đọc lệnh Bắt tạm giam bị can - Ảnh: Duy Thành 

[1] Điều 9 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền.

[2] Điều 9 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.

[3] Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị nêu rõ nhiệm vụ cần đổi mới biện pháp tạm giam, với ba nội dung quan trọng là “xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam”.

[4] Kết luận số 84-KL/TW của Bộ Chính trị đã xác định: “Tiếp tục quán triệt và thực hiện các quan điểm, định hướng cải cách tư pháp nêu trong Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp, bảo đảm thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân”.

[5] Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Nghiên cứu ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”.

[6] Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm là: “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật...”.

[7] Điều 453 - 455 và Điều 463 BLTTHS Đức.

[8] Khoản 1 Điều 112 BLTTHS Đức.

[9] Điều 157 BLTTHS Đức.

[10] Điều 12 BLTTHS Đức.

[11] Khoản 2 Điều 113 BLTTHS Đức.

[12] Điều 114 BLTTHS Đức.

[13] Điều 122a BLTTHS Đức.

[14] Khoản 2 Điều 121 BLTTHS Đức.

[15] Điều 116, 116a BLTTHS Đức.

[16] Điều 120 BLTTHS Đức.

[17] Điều 117 BLTTHS Đức.

PGS. TS. NGUYỄN HÒA BÌNH (Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao)