Thực tiễn áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết vụ án dân sự và giải pháp, kiến nghị hoàn thiện

Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là một chế định tiến bộ trong pháp luật tố tụng dân sự. Ở Việt Nam, thủ tục này lần đầu tiên được chính thức ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, hiện thực hóa nhiệm vụ cải cách tư pháp; đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án; phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, do là quy định mới nên thực tiễn áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập nhất định.

1. Khái niệm và đặc điểm của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

1.1. Khái niệm thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

“Thủ tục rút gọn”, “thủ tục đơn giản” hay “thủ tục giản lược” là thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ thủ tục tố tụng theo đó các thủ tục tố tụng được đơn giản (giản lược) hơn so với thủ tục tố tụng thông thường.

Khái niệm thủ tục rút gọn lần đầu tiên được chính thức diễn giải tại khoản 1 Điều 316 BLTTDS năm 2015, theo đó: “Thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng được áp dụng để giải quyết vụ án dân sự có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật với trình tự đơn giản so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thông thường nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật”.

Như vậy, theo quy định của BLTTDS năm 2015, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn trước hết cũng là một thủ tục tố tụng nhưng có trình tự đơn giản hơn so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thông thường. Hay nói cách khác, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là thủ tục tố tụng dân sự thông thường đã được giản lược (rút gọn) một số trình tự. Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn chỉ được áp dụng để giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Mục đích của việc áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật.

1.2. Đặc điểm của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

Từ khái niệm thủ tục tố tụng dân sự rút gọn, nhận thấy thủ tục tố tụng dân sự rút gọn có các đặc điểm sau đây:

Thứ nhất: Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn chỉ áp dụng để giải quyết những vụ án có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Các điều kiện này được quy định tùy theo pháp luật tố tụng dân sự của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Thông thường điều kiện này là: Tranh chấp có chứng cứ rõ ràng, nội dung tranh chấp đơn giản, tài sản tranh chấp có giá trị không lớn,…

Thứ hai: Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn được giản lược một số thủ tục tố tụng so với thủ tục tố tụng dân sự thông thường.

Thứ ba: Thời gian giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng dân sự sẽ được rút ngắn hơn so với thời gian giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường nhưng vẫn bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng pháp luật.

Thứ tư: Giảm thiểu chi phí cho Nhà nước và đương sự khi giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng rút gọn.

2. Quy định của BLTTDS năm 2015 về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

2.1. Giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng rút gọn tại Tòa án cấp sơ thẩm

2.1.1. Phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn

Phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn là giới hạn luật định áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp dân sự. Theo quy định tại Điều 316 BLTTDS năm 2015 thì các quy định tại Phần thứ tư – “Giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn” được áp dụng để giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn. Trong trường hợp không quy định thì áp dụng các quy định khác của BLTTDS để giải quyết vụ án. Nếu luật khác có quy định tranh chấp dân sự được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì việc giải quyết tranh chấp đó cũng được thực hiện theo các quy định về thủ tục rút gọn của BLTTDS.

2.1.2. Điều kiện áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn

Điều kiện áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn là những căn cứ mà BLTTDS quy định cần và đủ để có thể áp dụng thủ tục rút gọn. Theo quy định tại Điều 317 BLTTDS năm 2015 thì thủ tục tố tụng rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau:

Thứ nhất: Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ;

Thứ hai: Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng;

Thứ ba: Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.

Đối với vụ án lao động đã được thụ lý, giải quyết theo thủ tục rút gọn mà người sử dụng lao động có quốc tịch nước ngoài hoặc người đại diện theo pháp luật của họ đã rời khỏi địa chỉ nơi cư trú, nơi có trụ sở mà không thông báo cho đương sự khác, Tòa án thì bị coi là trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa án vẫn giải quyết vụ án đó theo thủ tục rút gọn. Nghĩa là, nếu một vụ án lao động mà ban đầu vụ án đó đã thỏa mãn các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn và Tòa án đã thụ lý, giải quyết theo thủ tục rút gọn mà sau đó người sử dụng lao động có quốc tịch nước ngoài hoặc đại diện theo pháp luật của họ rời khỏi địa chỉ nơi họ đang sinh sống hoặc nơi họ thường xuyên sinh sống thì Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn. Như vậy quy định này chỉ áp dụng đối với đương sự là người sử dụng lao động có quốc tịch nước ngoài.

2.1.3. Khởi kiện và thụ lý vụ án theo thủ tục tố tụng rút gọn

BLTTDS năm 2015 không quy định một phần riêng về vấn đề thụ lý đơn yêu cầu giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng rút gọn. Như vậy, thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án theo thủ tục tố tụng rút gọn được thực hiện theo quy định chung của BLTTDS năm 2015 (tức là các quy định về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng thông thường).

Sau khi nhận đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng kèm theo, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Thẩm phán phải thông báo cho người khởi kiện biết về việc phải đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí và Thẩm phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí, trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Thẩm phán thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án. Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án. Nội dung của thông báo thụ lý phải có các nội dung được quy định tại khoản 2 Điều 196 BLTTDS năm 2015 và phải ghi rõ trong thông báo là vụ án được thụ lý theo thủ tục rút gọn.

2.1.4. Thủ tục khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục tố tụng rút gọn

Một điểm khác biệt giữa thủ tục tố tụng thông thường và thủ tục tố tụng rút gọn đó là đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục tố tụng rút gọn. Cụ thể, theo Điều 319 BLTTDS năm 2015 thì: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ khi nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn, đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã ra quyết định”.

Khi giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục tố tụng rút gọn, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ khi nhận được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Tòa án phải ra một trong các quyết định giữ nguyên hoặc hủy quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn và chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án là quyết định cuối cùng và phải được gửi ngay cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp.

Như vậy, việc khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn là nhằm để đảm bảo vụ tranh chấp thực sự có thỏa mãn các điều kiện về xét xử theo thủ tục rút gọn hay không, nếu không thỏa mãn các điều kiện theo quy định tại Điều 317 BLTTDS năm 2015 thì vụ án được chuyển sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường.

2.1.5. Phiên tòa xét xử sơ thẩm theo thủ tục tố tụng rút gọn

– Sự có mặt của Kiểm sát viên, đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm:

Tại phiên tòa xét xử vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng rút gọn, theo quy định tại khoản 1 Điều 320 BLTTDS năm 2015, trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vấn tiến hành xét xử mà không phải hoãn phiên tòa.

Khoản 1 Điều 320 BLTTDS năm 2015 quy định:“Các đương sự phải có mặt tại phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, đương sự được quyền đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt họ. Như vậy, đối với phiên tòa xét xử theo thủ tục tố tụng rút gọn thì trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa mà không phải hoãn phiên tòa như thủ tục thông thường. Quy định này bảo đảm cho vụ án được đưa ra xét xử nhanh chóng, kịp thời, khắc phục được tình trạng kéo dài thời gian giải quyết vụ án do phiên tòa bị hoãn nhiều lần vì lý do vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan mà không có lý do chính đáng.

2.2. Giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng rút gọn tại Tòa án cấp phúc thẩm

2.2.1. Kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định theo thủ tục tố tụng rút gọn

Theo quy định tại Điều 322 BLTTDS năm 2015 thì thời hạn kháng cáo đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục rút gọn là 07 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án, quyết định được giao cho họ hoặc bản án, quyết định được niêm yết. Thời hạn kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục tố tụng rút gọn của Viện kiểm sát cùng cấp là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định. Như vậy thời hạn kháng cáo của đương sự và kháng nghị của Viện kiểm sát đã được rút ngắn hơn so với thủ tục tố tụng thông thường.

2.2.2. Thụ lý vụ án phúc thẩm theo thủ tục tố tụng rút gọn

Sau khi nhận được hồ sơ vụ án bị kháng cáo, kháng nghị thì việc thụ lý phúc thẩm vụ án theo thủ tục tố tụng rút gọn được thực hiện như thủ tục tố tụng thông thường quy định tại khoản 2 Điều 316 BLTTDS năm 2015. Tòa án vào sổ thụ lý và thông báo về việc thụ lý cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp, đồng thời Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết.

2.2.3. Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục tố tụng rút gọn

Theo quy định tại Điều 323 BLTTDS năm 2015 thì thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ tục tố tụng rút gọn là 01 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án. Trong thời hạn này, tùy từng trường hợp, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra một trong các quyết định: tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được tính lại kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án khi lý do tạm đình chỉ không còn.

Trường hợp xuất hiện tình tiết mới quy định tại khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015 thì Tòa án ra quyết định chuyển sang thủ tục thông thường và thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường.

2.2.4. Phiên tòa xét xử phúc thẩm theo thủ tục tố tụng rút gọn

– Sự có mặt của Kiểm sát viên, đương sự và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa phúc thẩm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 324 BLTTDS năm 2015 thì các đương sự, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt tại phiên tòa phúc thẩm. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, trừ trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm. Đương sự có quyền đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Trường hợp đương sự không có kháng cáo đã được Tòa án triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa.

– Thẩm quyền của Thẩm phán xét xử phúc thẩm

Khi xem xét bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Thẩm phán có các quyền sau:

+ Giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm;

+ Sửa bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm;

+ Hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo thủ tục rút gọn hoặc theo thủ tục thông thường nếu không còn đủ các điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn;

+ Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án;

+ Đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các căn cứ để Thẩm phán ra một trong các quyết định nêu trên được thực hiện theo quy định chung tại Điều 109, Điều 310, Điều 311 và Điều 312 BLTTDS năm 2015.

2.3. Chuyển vụ án giải quyết theo thủ tục tố tụng rút gọn sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường

Theo quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 317 BLTTDS năm 2015 trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn, Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường nếu xuất hiện tình tiết mới làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn và thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Cụ thể là phát sinh một trong các trường hợp sau đây:

– Phát sinh tình tiết mới mà các đương sự không thống nhất do đó cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải tiến hành giám định;

– Cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp mà các đương sự không thống nhất về giá;
– Cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

– Phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

– Phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập;

– Phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà cần phải thực hiện ủy thác tư pháp, trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều Điều 317 BLTTDS năm 2015.

3. Thực tiễn áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn trong giải quyết vụ án dân sự và giải pháp, kiến nghị hoàn thiện

3.1. Những hạn chế và khó khăn khi áp dụng các quy định về thủ tục tố tụng rút gọn

3.1.1. Về điều kiện áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn

– Điều kiện: “Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ”:

Hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể nào về cách hiểu thế nào là “vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ”, điều này làm cho việc áp dụng quy định này để xem xét vụ án nào đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn giải quyết gặp rất nhiều khó khăn, thiếu sự đồng nhất giữa các Tòa án. Việc chưa có cách hiểu cụ thể về điều kiện này cũng gây ra khó khăn cho đương sự trong việc lựa chọn thủ tục tố tụng rút gọn để giải quyết tranh chấp.

– Điều kiện: “Tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ”

Hiểu thế nào là vụ án có tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể mà chủ yếu phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của Thẩm phán. Điều này dẫn đến khả năng Thẩm phán đánh giá không đúng về tính đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ của tài liệu, chứng cứ từ đó quyết định việc áp dụng hay không áp dụng thủ tục rút gọn không chuẩn xác hoặc có sự đánh giá khác nhau giữa các cấp xét xử dẫn đến tình trạng hủy, sửa bản án hoặc chuyển vụ án từ thủ tục tố tụng rút gọn sang thủ tục tố tụng thông thường khi xét xử ở cấp phúc thẩm. Bên cạnh đó, quy định điều kiện đủ “và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ” là quá chặt, dẫn đến thu hẹp đối tượng vụ án được áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn.

3.1.2. Về thủ tục khiếu nại, kiến nghị việc Tòa án áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn

BLTTDS năm 2015 chỉ quy định việc khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn tại Điều 319 mà chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại của đương sự đối với việc Tòa án thụ lý vụ án theo thủ tục tố tụng rút gọn. Thiếu sót này dẫn đến đương sự, Viện kiểm sát không có quyền khiếu nại, kiến nghị đối với việc Tòa án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng rút gọn ngay từ đầu mà phải đợi đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử mới có quyền khiếu nại, kiến nghị.
Trường hợp qua giải quyết khiếu nại, kiến nghị mà phải chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường thì gây lãng phí khoảng thời gian từ khi thụ lý vụ án đến khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

3.1.3. Về vấn đề chuyển vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn sang thủ tục thông thường và ngược lại

Khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015 quy định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn, nếu xuất hiện tình tiết mới làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn thì Tòa án phải ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Tuy nhiên, BLTTDS năm 2015 lại không có quy định sau khi thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường mà có đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn thì chuyển từ thủ tục thông thường sang thủ tục rút gọn. BLTTDS năm 2015 cũng không quy định cho phép Tòa án ấp phúc thẩm thụ lý vụ án theo thủ tục tố tụng rút gọn trong trường hợp vụ án được Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường nhưng đến khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý thì vụ án có đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn.

Khoản 3 Điều 191 BLTTDS năm 2015 quy định: Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công xem xét đơn khởi kiện, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và tùy từng trường hợp mà ra quyết định – trong đó có tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 317 của BLTTDS năm 2015. Như vậy, việc áp dụng thủ tục rút gọn hay không là phải quyết định ngay từ khi thụ lý vụ án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, Tòa án cần có thời gian (dài hơn 05 ngày làm việc) để xác định được chính xác một vụ việc có đủ các điều kiện để áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn theo quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS năm 2015 hay không. Do luật không quy định nên đối với những vụ án này Tòa án thông thường sẽ thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Sau đó, mặc dù vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn nhưng do BLTTDS không quy định về việc chuyển từ thủ tục thông thường sang thủ tục rút gọn nên vụ án vẫn không thể được giải quyết theo thủ tục rút gọn.

3.1.4. Về thời hạn chuẩn bị xét xử

Đối với thủ tục tố tụng dân sự rút gọn thì Thẩm phán trong vòng một tháng bắt buộc chỉ được ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quy định này đã rút ngắn thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục rút gọn so với thủ tục thông thường. Tuy nhiên, với quy định này thì thời gian vụ án dân sự giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường có thể sẽ được rút ngắn hơn so với giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn. Cụ thể với trường hợp giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự thông thường mà sau khi thụ lý các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự sau thời gian bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành. Còn nếu để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn thì thời gian này tối thiểu phải là một tháng.

3.1.5. Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

BLTTDS năm 2015 không quy định về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với vụ án giải quyết theo thủ tục tố tụng rút gọn. Theo khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn, nếu xuất hiện tình tiết “cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời” thì Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường.
Như vậy, đối với vụ án giải quyết theo thủ tục tố tụng rút gọn thì không được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong khi đó, BLTTDS quy định nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời và có những biện pháp khẩn cấp tạm thời mà việc áp dụng chúng không làm ảnh hưởng đáng kể đến thời gian thụ lý, giải quyết vụ án, đồng thời cũng không phát sinh những vấn đề gì làm cho vụ án thêm phức tạp như: tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động; cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ; cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình,…

3.2. Đề xuất, kiến nghị

Thứ nhất: TANDTC cần có hướng dẫn cụ thể về điều kiện áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn quy định tại Điều 317 BLTTDS năm 2015.

Thứ hai: Bổ sung quy định cho phép đương sự được quyền khiếu nại, Viện kiểm sát được quyền kiến nghị đối với thông báo thụ lý vụ án theo thủ tục tố tụng rút gọn.

Thứ ba: Bổ sung quy định cho phép Tòa án có thẩm quyền chuyển từ thủ tục tố tụng thông thường sang giải quyết theo thủ tục tố tụng rút gọn nếu trong quá trình giải quyết vụ án mà xét thấy vụ án thỏa mãn các điều kiện để áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn.

Thứ tư: Bổ sung quy định cho phép Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng rút gọn khi đủ điều kiện kể cả trong trường hợp trước đó Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng thủ tục tố tụng thông thường để giải quyết vụ án.

Thứ năm: Bổ sung quy định cho phép Thẩm phán được ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự hoặc đình chỉ giải quyết vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án giải quyết theo thủ tục tố tụng rút gọn. Điều kiện để ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự hoặc đình chỉ giải quyết vụ án được thực hiện theo quy định chung tại Điều 212 và Điều 217 BLTTDS năm 2015.

Thứ sáu: Bổ sung quy định cho phép áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời không làm thay đổi tính chất và không ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết vụ án và khi áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời này thì vụ án vẫn được xét xử theo thủ tục rút gọn./.

VÕ THỊ ÁNH TRÚC (Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang)