Chỉ áp dụng tình tiết định khung theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS đối với bị cáo Nguyễn Văn A

Sau khi nghiên cứu bài viết “Áp dụng tình tiết định khung nào đối với Nguyễn Văn A?” của tác giả Phạm Thị Ngà bài đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 22/3, tác giả cho rằng chỉ áp dụng tình tiết định khung theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS đối với bị cáo Nguyễn Văn A.

Tôi có quan điểm chỉ áp dụng tình tiết định khung theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS đối với bị cáo Nguyễn Văn A. Và vấn đề tác giả nêu trong trường hợp: Bị cáo có một tiền án về mua bán trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích lại bị bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà trọng lượng hoặc thể tích dưới định lượng quy định….thì có bị coi là tái phạm không? Về vấn đề này tôi cho rằng không bị coi là tái phạm. Vì đã bị kết án, chưa được xóa án tích ở đây được tính trong hành vi sau đó là cấu thành tội phạm cơ bản. Đã tính cấu thành tội phạm thì không được áp dụng là tình tiết định khung tăng nặng và cũng không được tính là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Còn đối với vụ án, cụ thể tác giả nêu thì tôi đồng tình với quan điểm của tác giả. Với lý do ngoài các lý do mà tác giả đã phân tích, tôi xin được phản biện lại quan điểm thứ nhất là không có cơ sở, không phù hợp quy định của pháp luật, cụ thể.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Xét xử bị cáo theo điểm a, c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 như VKSND truy tố. Vì nhân thân bị cáo “đã bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” là yếu tố cấu thành tội phạm với tình tiết định khung quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS 2015. Và hành vi bị cáo “tàng trữ trái phép 1,0270 gam ma túy Methamphetamine” là yếu tố cấu thành tội phạm với tình tiết định khung quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015.

Việc truy tố và xét xử bị cáo Nguyễn Văn A theo 02 tình tiết định khung cụ thể theo điểm a, c khoản 1 Điều 249 BLHS là không đúng, không phù hợp với quy định của pháp luật mà trong vụ án này chỉ truy tố, xét xử bị cáo Nguyễn Văn A theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Bởi các lý do:

 Thứ nhất, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;”.

Như vậy điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 thì phải được hiểu là: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chỉ bị coi là tội phạm nếu thỏa mãn hành vi khách quan của tội phạm trong trường hợp dưới định lượng của tội phạm (cụ thể dưới 01 gam chất ma túy, …) nếu thỏa mãn một trong các dấu hiệu sau:

Một là, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này: Đây là hành vi mà chủ thể đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy sau khi chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đã thực hiện trước đó;

Hai là, đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

Ba là, đã bị kết án về một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Do vậy, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS phải được hiểu là quy định tiền tố tụng đối với người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy khi chưa đủ định lượng thỏa mãn cấu thành cơ bản của tội phạm.

Trong vụ án này việc , ngày 07/01/2019, Nguyễn Văn A có hành vi tàng trữ trái phép 1,0270 gam ma túy Methamphetamine để sử dụng thì bị bắt quả tang. Trong khi đó Nguyễn Văn A có 01 tiền án, cụ thể tại Bản án số 12/2015/HSST ngày 12/5/2015 của TAND quận H xử phạt A 30 tháng tù về tội “mua bán trái phép chất ma túy” (chưa được xóa án tích). Như vậy, việc tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn A thỏa mãn dấu hiệu mặt khách quan của cấu thành tội phạm cơ bản, ở đây là việc tàng trữ 1,0270 gam ma túy Methamphetamine. Thỏa mãn cấu thành theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS “c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”. Vì vậy, việc trúy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn A phải theo nguyên tắc hành vi thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành nào thì truy cứu đến đó.

Thứ hai, về nhân thân bị cáo “đã bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” đây không phải là yếu tố cấu thành tội phạm với tình tiết định khung quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 như quan điểm 1 được. Vì hành vi tàng trữ ngày 07/01/2019 của Nguyễn Văn A đã đủ định lượng cơ bản của cấu thành tội phạm theo điểm c khoản 1 Điều 249 như trên tôi đã phân tích. Ở đây trong vụ án này Nguyễn Văn A phạm tội đủ cơ sở truy tố, xét xử theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Còn về nhân thân của Nguyễn Văn A do có 01 tiền án chưa được xóa án tích thì sẽ phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS theo nặng “tái phạm” tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS 2015.

Từ những phân tích trên tôi cho rằng quan điểm thứ hai là đúng pháp luật, cụ thể chỉ có thể truy tố, xét xử bị cáo Nguyễn Văn A theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Xin được trao đổi với tác giả và bạn đọc./.

TAND huyện Triệu Phong, Quảng Trị  mở phiên tòa xét xử vụ án hình sự “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy” đối với 05 bị cáo. Ảnh: Châu Thu

Ths ĐỖ NGỌC BÌNH ( Tòa án quân sự Thủ đô Hà Nội)