Nguyễn Văn A phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm a,c khoản 1 Điều 249 BLHS

Ngày 22/3/2020, Tạp chí Tòa án điện tử có đăng bài “Áp dụng tình tiết định khung nào đối với Nguyễn Văn A” của tác giả Phạm Thị Ngà. Sau khi nghiên cứu, tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất.

Ngày 07/01/2019, Nguyễn Văn A có hành vi tàng trữ trái phép 1,0270 gam ma túy Methamphetamine để sử dụng thì bị bắt quả tang. Nguyễn Văn A có 01 tiền án: Tại Bản án số 12/2015/HSST ngày 12/5/2015 của TAND quận H xử phạt A 30 tháng tù về tội “mua bán trái phép chất ma túy” (chưa được xóa án tích). Do vậy, A bị VKSND huyện T truy tố về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a, c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015.

Hiện nay đang có hai loại quan điểm khác nhau trong việc áp dụng tình tiết định khung đối với Nguyễn Văn A.

Quan điểm thứ nhất đồng tình với cáo trạng của VKS. Đó là xét xử bị cáo theo điểm a, c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015. Quan điểm thứ hai cho rằng xét xử bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015, không áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS 2015.

Tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất, cũng là quan điểm của VKSND đã truy tố. Bởi vì các lý do sau đây:

Thứ nhất: Xét quy định của Điều 249, khoản 1 là khung hình phạt cơ bản và khi thuộc một trong các trường hợp theo điểm a đến điểm i thì có người thực hiện hành vi tàng trữ chất ma túy sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này có nghĩa, các trường hợp này có vị thế ngang nhau trong việc thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Trong đó có hai trường hợp:

– Đã bị kết án về tội này hoặc các tội quy định tại Điều 248, 250, 251, 252 BLHS chưa được xóa án tích mà lại vi phạm.

– Heroine, Cocaine, Methamphetamine…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam.

Đây là hai trường hợp độc lập với nhau, trường hợp đầu tiên không đặt ra đòi hỏi về khối lượng của chất ma túy được tàng trữ. Dấu hiệu “lại” vi phạm thể hiện tính chất nguy hiểm của việc lặp lại và điều này làm cho hành vi tàng trữ khối lượng nhỏ chất ma túy có tính chất nguy hiểm nằm trong cùng một khung mức độ nguy hiểm với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy khi đạt khối lương theo các trường hợp khác.

Trong trường hợp trên, vì nhân thân bị cáo “đã bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” là yếu tố cấu thành tội phạm với tình tiết định khung quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS 2015. Và hành vi bị cáo “tàng trữ trái phép 1,0270 gam ma túy Methamphetamine” là yếu tố cấu thành tội phạm với tình tiết định khung quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015.

Thứ hai, tác giả đưa ra so sánh với quy định về Tội trộm cắp tài sản tại Điều 173 BLHS, tôi có ý kiến như sau: Mặc dù cách quy định của Điều luật này là rất rõ ràng nhưng nếu đọc kỹ quy định về hai tội phạm nêu trên, chúng ta có thể thấy chúng có những điểm chung. Cụ thể khoản 1 Điều 173 quy định có hai trường hợp lớn:

– Một là giá trị tài sản trộm cắp từ 2.000.000 đến 50.000.000;

– Hai là giá trị tài sản dưới 2.000.000 nhưng: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội này hoặc….chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Ở trường hợp thứ hai, quy định này cũng không hề đặt ra một giá trị nhất định mà chỉ nói là dưới 2.000.000, vậy thì 10.000, 5.000 cũng là dưới 2.000.000 đồng và nếu đủ điều kiện thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.

Tương tự như vậy, quy định tại Điều 249 mặc dù không nêu rõ nhưng chúng ta có thể xác định được hai trường hợp lớn:

– Khối lượng chất ma túy được tàng trữ phải đạt mức độ nhất định (điểm b đến điểm i);

– Đã bị xử phạt vi phạm hành chính…hoặc đã bị kết án….chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Như vậy, nếu khối lượng đạt đến một mức độ nhất định, hành vi này đã bị truy cứu trách nhiệm theo các điểm từ điểm b đến điểm i và khi khối lượng dưới những mức tối thiểu đó, nếu thuộc trường hợp lớn thứ hai, người này vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.

Do đó, điểm a khoản 1 Điều 249 không đặt ra dấu hiệu về khối lượng tối thiểu của chất ma túy được tàng trữ.

Thứ ba, tác giả liên hệ quy định của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA, VKSNDTC-TANDTC-BTP, tôi có ý kiến như sau:

Bỏ qua vấn đề về hiệu lực, ta áp dụng tinh thần của Thông tư này. Tác giả viện dẫn quy định tại tiểu mục 3.6 mục 3 phần II nói rằng: “Người nào tàng trữ Methamphetamine từ 01 gam đến dưới 05 gam thì sẽ phạm tội theo khoản 1 Điều 194 BLHS 1999. Nếu trọng lượng ma túy dưới 01 gam thì sẽ bị xử phạt hành chính”. Tuy nhiên, tiểu mục 3.7 còn có quy định như sau: “Người nào bị kết án về tội tàng trữ….chất ma túy chưa được xóa án tích mà lại tiếp tuc tàng trữ…chất ma túy có số lượng được hướng dẫn từ điểm a đến điểm g tiểu mục 3.6 nếu không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 194 BLHS….”.

Theo đó, “chất ma túy có số lượng được hướng dẫn từ điểm a đến điểm g tiểu mục 3.6” là chất ma túy có số lượng dưới mức tối thiểu đối với từng loại, ví dụ đối với Methamphetamine là dưới 0,1g. Nếu không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì áp dụng khoản 1 điều 194… Có nghĩa chỉ khi thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, tội phạm này chuyển sang khoản 2 còn nếu không thì tội phạm thuộc khoản 1.

Như vậy, từ quy định tại tiểu mục 3.7, người tàng trữ chất ma túy có khối lượng dưới mức tối thiểu nhưng là người đã bị kết án, chưa được xóa án tích sẽ bị truy cứu trách nhiệm theo khoản 1. Từ đây cũng có thể suy ra rằng, quy định tại tiểu mục 3.6 chỉ áp dụng cho đối tượng phạm tội chưa bị kết án về các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chiếm đoạt trái phép chất ma túy. Còn những người đã bị kết án về các tội này phải áp dụng theo tiểu mục 3.7.

Từ ba lý do trên, tôi cho rằng, trong trường hợp này, A phạm tội thuộc điểm a, c khoản 1 Điều 249.

Trên đây là quan điểm của tác giả, rất mong nhận được các ý kiến trao đổi từ bạn đọc./.

Ngày 23/5/2019, TANDCC tại Hà Nội kết thúc phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự đối với 18 bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, có 8 bị cáo trong vụ án đã bị tuyên án tử hình. Ảnh: Báo Hà Nam

VĂN LINH ( TAQS Khu vực 2 Hải quân)