Thẩm quyền kháng nghị quyết định hủy quyết định thi hành án hình sự của Viện kiểm sát

Sau khi đọc bài viết “Về thẩm quyền kháng nghị trong Luật Thi hành án hình sự” của các tác giả Hà Thái Thơ và Huỳnh Xuân Tình, đăng ngày 14/12, tôi xin có ý kiến trao đổi.

Tình huống tác giả đưa ra như sau: Bản án hình sự sơ thẩm của TAND huyện A tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thành T 3 năm tù, và Nguyễn Thành P 2 năm 6 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Sau khi xét xử sơ thẩm, do bị cáo có kháng cáo và Tòa án cấp phúc thẩm đã quyết định cho bị cáo Nguyễn Thành T và Nguyễn Thành P được hưởng án treo với mức hình phạt tù như bản án sơ thẩm đã tuyên. Trên cơ sở bản án phúc thẩm, TAND huyện A đã ban hành quyết định thi hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với người chấp hành án Nguyễn Thành T và Nguyễn Thành P, người ký quyết định thi hành án là Phó Chánh án ký thay Chánh án.

Bản án phúc thẩm bị kháng nghị, và Quyết định giám đốc thẩm đã tuyên xử: huỷ bản án phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm, tức là không cho T và P hưởng án treo. Trên cơ sở Quyết định giám đốc thẩm, Toà án huyện A đã ra quyết định huỷ bỏ quyết định thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo và ban hành quyết định thi hành hình phạt tù có thời hạn đối với người chấp hành án là Nguyễn Thành T và Nguyễn Thành P. Người ký quyết định thi hành án vẫn là Phó Chánh án, ký thay Chánh án.

VKSND huyện A đã có văn bản kháng nghị cho rằng việc huỷ quyết định thi hành án của TAND huyện A là đúng. Tuy nhiên, về thẩm quyền huỷ quyết định thì Phó Chánh án đã ký quyết định thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo thì không có thẩm quyền ký quyết định Huỷ quyết định này, mà người ký quyết định huỷ phải là Chánh án. Từ đó, VKSND huyện A yêu cầu Toà án phải huỷ quyết định huỷ thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo do Phó Chánh án ký và ban hành quyết định huỷ mới do Chánh án ký.

Theo tôi, quan điểm về việc kháng nghị cho rằng quyết định huỷ thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo phải do Chánh án ký và trong vụ việc nêu trên, Viện kiểm sát đã ban hành kháng nghị theo khoản 5 Điều 167 Luật Thi hành án hình sự nhưng không có cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết kháng nghị. Và trường hợp Viện kiểm sát cấp trên thống nhất với quan điểm của Viện kiểm sát cấp dưới thì không đảm bảo tính khách quan trong hoạt động tư pháp là có căn cứ. Bởi lẽ:

Thứ nhất, đối với quyết định hủy quyết định thi hành án, BLTTHS năm 2015, được sửa đổi, cũng như Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đều không có bất cứ điều luật nào quy định về việc hủy quyết định thi hành án. Duy nhất chỉ có Điều 343[1], khoản 2 Điều 355[2] BLTTHS quy định khi nào bản án có hiệu lực pháp luật và tại Điều 2 Luật Thi hành án hình sự quy định về những bản án, quyết định được thi hành. Như vậy, việc Tòa án ban hành quyết định hủy quyết định thi hành án phạt tù nhưng cho hưởng án treo rồi ban hành quyết định thi hành án phạt tù khi có quyết định giám đốc thẩm theo tôi là chưa có căn cứ pháp luật. Trong trường hợp này, theo tôi chỉ cần căn cứ quyết định giám đốc thẩm để ban hành quyết định thi hành án phạt tù và trong quyết định này ghi rõ quyết định này thay thế cho quyết định thi hành án phạt tù nhưng cho hưởng án treo là đủ căn cứ pháp luật và giải quyết được hậu quả pháp lý của quyết định đã ban hành.

Thứ hai, về thẩm quyền kí quyết định thi hành án, quyết định hủy quyết định thi án. Theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 42, điểm c khoản 2 Điều 47 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì Chánh án “Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của luật tố tụng”. Tại điểm d khoản 1 Điều 44 BLTTHS thì Chánh án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hình sự. Tại Điều 13 Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ về công tác văn thư thì việc ký ban hành văn bản được thực hiện như sau: “1. Cơ quan, tổ chức làm việc theo chế độ thủ trưởng:  Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ký tất cả văn bản do cơ quan, tổ chức ban hành; có thể giao cấp phó ký thay các văn bản thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách và một số văn bản thuộc thẩm quyền của người đứng đầu. Trường hợp cấp phó được giao phụ trách, điều hành thì thực hiện ký như cấp phó ký thay cấp trưởng.” Đồng thời, tại điểm b khoản 1 Điều 14 của Quy chế về công tác văn thư trong hệ thống TANDban hành kèm theo Quyết định số 01/QĐ-TAND ngày 04/01/2022 của TANDTC quy định “Đối với Toà án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện: Chánh án có thẩm quyền ký tất cả các văn bản cùa cơ quan. Chánh án có thể giao cho Phó Chánh án ký thay (KT.) các văn bản thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách.” Từ quy định này có thể thấy rằng, việc Phó chánh án ký thay Chánh án trong việc ban hành quyết định thi hành án hình sự là đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục ban hành văn bản.

Thứ ba, về thẩm quyền giải quyết kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu của Viện kiểm sát theo quy định tại Điều 167 Luật Thi hành án hình sự, cần xác định trong vụ việc thực tế này, kháng nghị của Viện kiểm sát căn cứ theo khoản 5 Điều 167 Luật Thi hành án hình sự. Đối với loại kháng nghị này, thẩm quyền giải quyết được quy định rõ tại khoản 4 Điều 169 Luật Thi hành án hình sự. Đó là: Tòa án phải có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kháng nghị. Trong trường hợp không nhất trí với kháng nghị thì có quyền khiếu nại lên Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Quyết định của Viện kiểm sát cấp trên phải được thi hành.

Như vậy, chủ thể được giao quyền kháng nghị thì lại đồng thời là chủ thể mang quyền giải quyết việc kháng nghị thì sẽ không đảm bảo nguyên tắc khách quan, kiểm soát quyền lực và độc lập. Luật Thi hành án hình sự đã có sự phân biệt rõ ràng hai thẩm quyền kháng nghị theo trình tự tố tụng khác nhau gồm có: Loại thứ nhất là kháng nghị theo quy định về tố tụng hình sự (kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) đối với các quyết định do Tòa án ban hành theo trình tự, thủ tục luật định[3]. Khi Viện kiểm sát kháng nghị đối với các quyết định này thì thẩm quyền, thủ tục, thời hạn kháng nghị sẽ được thực hiện theo quy định của BLTTHS. Loại thứ hai là kháng nghị đối với các quyết định, hành vi khác của Tòa án, của cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự quy định tại khoản 4 Điều 169, khoản 5 Điều 167 Luật thi hành án hình sự. Thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết đối với loại kháng nghị này không áp dụng BLTTHS mà chỉ áp dụng các quy định về Luật Thi hành án hình sự.

Việc quy định kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cùng trong một điều khoản với cách thức giải quyết, quy trình tố tụng hoàn toàn khác biệt đã gây khó khăn, lúng túng trong việc thi hành trong thực tiễn. Do đó, theo tôi cần xác định trong vụ việc này, kháng nghị về việc chủ thể nào được quyền ký ban hành quyết định thi hành án hình sự phải được giải quyết theo trình tự tố tụng của BLTTHS để có sự tham gia xem xét, quyết định bởi cấp phúc thẩm, có sự tham gia phiên họp của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp nhằm xem xét khách quan, toàn diện toàn bộ nội dung vụ việc. Đồng thời, kiến nghị sửa đổi khoản 5 Điều 167 Luật Thi hành án hình sự theo hướng tách biệt rõ trường hợp nào thì Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị, trường hợp nào thì kiến nghị hoặc yêu cầu.

Trên đây là quan điểm của tác giả mong độc giả đóng góp thêm./.

 

TAND huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh xét xử vụ án hình sự - Ảnh: TCKS

 

 

 

 

 

[1] Điều 343. Hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không có kháng cáo, kháng nghị

Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[2] Điều 355. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm

1. Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền:

2. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

[3]Quyết định 501/QĐ-VKSNDTC ngày 12/12/2017 về việc ban hành quy chế kiểm sát tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự

Điều 42. Thực hiện quyền kháng nghị

1. Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị đối với quyết định, hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân được quy định tại Điều 3 Quy chế này khi có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân để yêu cầu chấm dứt, khắc phục và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật và Điều 37 Quy chế này. Thẩm quyền kháng nghị được thực hiện như sau:

a) Viện kiểm sát kháng nghị hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền của cơ quan cùng cấp và cấp dưới trong việc tạm giữ, tạm giam;

b) Viện kiểm sát kháng nghị hành vi, quyết định của Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp và cấp dưới; của cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự và cá nhân có liên quan trong việc thi hành án hình sự.

2. Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm những quyết định sau đây của Tòa án cùng cấp và cấp dưới: quyết định miễn, giảm thời hạn chấp hành án phạt tù; quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, quyết định hủy quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện; quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo; quyết định rút ngắn thời gian thử thách của người được tha tù trước thời hạn có điều kiện; quyết định giảm thời hạn, miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ; quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, miễn chấp hành thời hạn quản chế còn lại.

 

NGUYỄN HỒNG THẮM (Phòng KTNV và Thi hành án – Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa)