Giá trị cốt lõi của Tòa án là mang lại công bằng cho xã hội và tạo được lòng tin của người dân vào công lý

Hội nghị quốc tế “Hoàn thiện hệ thống tư pháp trước những thách thức hiện nay” được tổ chức tại Bang Koc, Thái Lan, nhằm trao đổi kinh nghiệm, tăng cường hợp tác về tòa án và tư pháp của các nước trong khu vực Tiểu vùng Mê Công mở rộng. Ông Nguyễn Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC, dẫn đầu Đoàn đại biểu Việt Nam, tham dự và có bài phát biểu tại hội nghị. Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả ( Đầu đề do BBT đặt)

Trong thời gian gần đây, chúng ta đã và đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của mối quan hệ hợp tác giữa các Tòa án của các nước trong khu vực thông qua các diễn đàn đa phương, đặc biệt là Hội đồng Chánh án ASEAN,  là một thực thể liên kết được ghi nhận trong Hiến chương ASEAN. Chúng tôi hoan nghênh và ủng hộ sáng kiến của Tòa án tối cao Thái Lan trong việc tổ chức Hội nghị quốc tế “Hoàn thiện hệ thống tư pháp trước những thách thức hiện nay.” Đây là diễn đàn để chúng ta chia sẻ những vấn đề chung mà Tòa án các nước cùng quan tâm, đồng thời là cơ hội để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ hợp tác, gắn kết, hữu hảo giữa các Tòa án và giữa người đứng đầu Tòa án tối cao của các nước trong khu vực.

Chúng ta đều biết rằng, giá trị cốt lõi của Tòa án là mang lại công bằng cho xã hội và tạo được lòng tin của người dân vào công lý. Để làm được điều đó hoạt động Tòa án phải đảm bảo được sự bình đẳng trước pháp luật, tính công khai, minh bạch, vô tư, độc lập trong việc ra quyết định. Các thẩm phán phải là những cán bộ trách nhiệm, chuyên nghiệp và là biểu tượng của liêm chính. Đây là những mục tiêu, giá trị chung mà tòa án mỗi quốc gia đều hướng đến bằng các chiến lược, bước đi phù hợp với sự phát triển của đất nước mình.

Các Chánh án ấn nút khai mạc Hội nghị

 

Từ năm 2005, Việt Nam bắt đầu thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, lấy Tòa án làm trung tâm của cải cách tư pháp và nhiệm vụ xét xử làm trọng tâm. Qua hơn mười năm tiến hành cải cách bền bỉ, Việt Nam đã đạt những kết quả nổi bật sau:

– Một là xây dựng thể chế:

+ Chúng tôi đã ban hành Hiến pháp năm 2013,  cùng nhiều bộ luật tư pháp quan trọng như Bộ luật hình sự 2015, Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Luật tố tụng hành chính 2015…Tinh thần đổi mới nổi bật của các đạo luật này là khẳng định tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Những bộ luật này tạo nền tảng pháp lý quan trọng cho việc xây dựng và vận hành nhà nước pháp quyền, cho hoạt động của hệ thống tòa án để  bảo vệ quyền con người và quyền công dân.

+ Thủ tục tố tụng tại tòa án cũng có những cải cách mạnh mẽ theo hướng tăng cường tranh tụng, mở rộng quyền cho  luật sư, ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội, tăng cường bảo vệ quyền con người…

  • Hai là hoàn thiện tổ chức  hệ thống Tòa án:

+ Chuyển đổi cơ cấu tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân từ ba cấp sang bốn cấp gồm TANDTC,  TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện; tăng cường độc lập tư pháp.

+ Đổi mới hoạt động hành chính tư pháp theo mô hình “một cửa” để quản lý  công việc xét xử hiệu quả hơn, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp khi tiếp cận với tòa án;

  • Ba là phát triển nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ thẩm phán liêm chính, chuyên nghiệp: Đội ngũ Thẩm phán đã tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng.

+  Hoàn thiện cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm và giám sát thẩm phán. Nâng cao tiêu chuẩn lựa chọn nguồn thẩm phán, xây dựng hệ thống thi quốc gia để tuyển chọn và nâng ngạch để đảm bảo lựa chọn được những cán bộ tư pháp tốt nhất, có năng lực, đạo đức và phẩm chất tốt làm thẩm phán. Thành lập hội đồng tuyển chọn, bổ nhiệm và giám sát thẩm phán quốc gia. Xây dựng qui trình bổ nhiệm minh bạch hơn, chặt chẽ hơn. Kéo dài nhiệm kỳ của thẩm phán từ năm năm lên 10 năm nhằm tăng cường tính độc lập cho thẩm phán. Ban hành Bộ qui tắc đạo đức thẩm phán phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về công khai, minh bạch và độc lập tư pháp.

+ Nâng cấp Học viện Tòa án đủ năng lực đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ phát triển và hội nhập quốc tế.

  • Bốn là tăng cường đầu tư cho Tòa án về cơ sở vật chất:

+ Đầu tư xây mới hoặc nâng cấp trụ sở Tòa án các cấp ở qui mô toàn quốc theo hướng trang nghiêm, hiện đại, là biểu tượng quyền lực nhà nước.

+ Cung cấp trang thiết bị làm việc từng bước hiện đại, đồng bộ cho hệ thống Tòa án, phục vụ nhiệm vụ tin học hóa hoạt động của hệ thống Tòa án.

– Năm là áp dụng các giải pháp và chính sách mới:

+ Chúng tôi đã tiến hành công bố các bản án có hiệu lực trên mạng Internet và xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý bản án. Từ 01/7/2017 đến nay, đã công bố 136.225 bản án, với 6.284.775 lượt truy cập.

+ Xây dựng và phát triển án lệ, hình thành cơ sở dữ liệu về án lệ  trực tuyến nhằm đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật. Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết về qui trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. Hiện đã công bố 16 án lệ đầu tiên của Việt Nam. Trang tin về án lệ đã có hơn 300.000 lượt truy cập tính từ ngày công bố.

+ Tăng cường tranh tụng; đổi mới cách thức cách thức sắp xếp bài trí phiên tòa, đổi mới mô hình tố tụng, mở rộng quyền cho luật sư, giao trách nhiệm tìm kiếm chứng cứ và chứng minh cho các bên, đổi mới qui trình tranh tụng tại phiên tòa theo hướng dành nhiều thời gian hơn cho giai đoạn hỏi đáp, tranh luận giữa các bên hoặc luật sư của họ…

+ Đẩy mạnh sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin tại Tòa án,  xây dựng Kế hoạch tổng thể phát triển công nghệ thông tin dài hạn, xây dựng các phần mềm và cơ sở dữ liệu chuyên môn trong nhiều lĩnh vực như quản lý vụ án, quản lý đơn, phân án ngẫu nhiên…. Chúng tôi đang triển khai những bước đi ban đầu cho việc xây dựng tòa án điện tử, thông qua việc cho phép gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu tố tụng, cấp, tống đạt văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử…

+ Thúc đẩy sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp lựa chọn. Vừa qua, chúng tôi thí điểm cơ chế hòa giải tiền tố tụng tại tòa án, kết quả đạt được là khoảng 75% số vụ việc được hòa giải thành.

–  Sáu là mở rộng hợp tác quốc tế. TANDTC chủ động và tích cực tham gia các diễn đàn đa phương và song phương trong khuôn khổ như Hội nghị Chánh án các nước Châu Á – Thái Bình Dương, Hội đồng Chánh án ASEAN…Quan hệ hợp tác song phương với các Tòa án tối cao các nước phát triển mạnh. Vị thế, uy tín của Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam trong cộng đồng tư pháp quốc tế đã tăng đáng kể.

Câu hỏi đặt ra là hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với thách thức gì. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống Tòa án đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức trước mắt và lâu dài. Từ kinh nghiệm của Việt Nam, có bốn thách thức mang ý nghĩa toàn cầu như sau:

– Thách thức thứ nhất: Theo qui luật, vi phạm, tội phạm tăng tỷ lệ thuận với qui mô dân số và qui mô nền kinh tế. Ở khía cạnh nào đó, sự phát triển kinh tế, xã hội, sự gia tăng dân số làm gia tăng áp lực lên hệ thống Tòa án. Trong 10 năm lại đây, qui mô nền kinh tế Việt Nam đã tăng gấp đôi, dân số tăng hơn 90 triệu người. Vì vậy, tốc độ gia tăng của các loại án từ 8% đến 10% một năm. Và từ 2012 đến 2018, số lượng các loại án cũng tăng gấp đôi. Trong khi đó biên chế không được tăng, nhất là đội ngũ chức danh tư pháp.

– Thách thức thứ hai: Thế giới đang chứng kiến quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng trên mọi lĩnh vực. Điều này đang là một xu thế và đã mang lại cho các quốc gia nhiều cơ hội phát triển. Ở khía cạnh khác, quá trình hội nhập cũng làm quốc tế hóa các vi phạm, tội phạm. Tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại đã trở nên xuyên quốc gia; quan hệ và trao đổi công dân đã không còn phụ thuộc vào quốc tịch; tội phạm đã hoạt động không còn biên giới. Thực tiễn đó đã chỉ rõ nếu chỉ có nỗ lực đơn phương của một quốc gia sẽ không giải quyết thấu đáo các vụ án của thời hội nhập.

– Thách thức thứ ba: Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, đã làm biến đổi thế giới sâu sắc. Nhân loại đang hướng đến thời đại 4.0. Khoa học công nghệ cũng làm xuất hiện những vấn đề mới, phức tạp như tội phạm công nghệ cao, tiền ảo, tranh chấp trên mạng Internet, phá sản doanh nghiệp đa quốc gia… Đây là những lĩnh vực mà chúng ta chưa hiểu biết, thiếu kinh nghiệm phòng chống và cũng chưa có hạ tầng pháp lý để giải quyết.

– Thách thức thứ tư: Biến đổi khí hậu và các vấn đề về môi trường cũng là một thách thức mới. Xuất hiện một số tội phạm, tranh chấp phức tạp, có ảnh hưởng lớn (ô nhiễm môi trường)…Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến một quốc gia, mà còn ảnh hưởng khu vực và toàn cầu.

Trước những thách thức nói trên, nhiệm vụ của các quốc gia cần tập trung vào những định hướng sau:

– Hoàn thiện pháp luật để điều chỉnh, xử lý, giải quyết các quan hệ xã hội mới phát sinh. Cần tập trung nghiên cứu sâu những vấn đề pháp lý mới xuất hiện cùng với sự phát triển của công nghệ, hội nhập kinh tế và tự do đi lại, xuyên biên giới quốc gia, từ đó kịp thời ban hành các văn bản điều chỉnh cần thiết tương ứng phát triển án lệ với những án lệ tốt của tòa án có thể là công cụ hữu hiệu xử lý những tình huống mới này. Tăng cường trao đổi kinh nghiệm, kiến thức thông qua các diễn đàn, hội nghị quốc tế về pháp luật và tư pháp, mở rộng giao lưu, học hỏi với các tòa án quốc gia khác là rất hữu ích.

– Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng để cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ thẩm phán, cán bộ tòa án; phát triển chuyên gia trên nhiều lĩnh vực nhằm hỗ trợ hiệu quả trong công tác xét xử. Nhằm đạt được mục tiêu này, giải pháp cơ bản nhất là tăng cường năng lực đào tạo tư pháp quốc gia, thông qua việc tiếp tục tập trung nguồn nhân lực và vật lực cho Học viện Tòa án, tiếp tục giao lưu, học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm của nước ngoài trong lĩnh vực xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo, tăng cường năng lực đội ngũ giảng viên, tiếp thu kỹ năng giảng dậy tiên tiến…

– Tìm hiểu những phương thức mới (hòa giải, trọng tài…) để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp đang gia tăng thay cho phương thức xét xử truyền thống. Xu hướng xử lý những xung đột, bất hòa trong xã hội bằng các phương thức giải quyết tranh chấp một cách chia sẻ, ôn hòa, hỗ trợ cho phương thức xét xử truyền thống ngày càng phát triển mạnh trên thế giới. Thí điểm áp dụng phương pháp hòa giải tiền tố tụng tại Tòa án tại Tòa án Hải Phòng trong sáu tháng vừa qua đã cho thấy định hướng này là đúng đắn, với tỷ lệ hòa giải thành đạt được là 76,2%. Thời gian tới, cần nhân rộng mô hình thí điểm này, xây dựng Luật hòa giải tại tòa án tạo nền tảng pháp lý để phát triển mô hình này trên phạm vi toàn quốc. Tòa án cũng cần phát huy vai trò hỗ trợ của mình đối với các kênh giải quyết tranh chấp lựa chọn ngoài tòa án như trọng tài, thương lượng…

– Tăng cường hợp tác quốc tế giữa các cơ quan tư pháp để trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin, hỗ trợ đào tạo cán bộ, phối hợp giải quyết các vụ án xuyên biên giới. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế, nhu cầu hợp tác giữa các tòa án ngày càng trở nên bức thiết. Việc tích cực và chủ động hợp tác thông qua các cơ chế như Hội đồng Chánh án ASEAN (CACJ) là một ví dụ tiêu biểu trong việc hoàn thiện cơ chế hợp tác trong khuôn khổ ASEAN và xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN. Hợp tác song phương giữa các Tòa án tối cao quốc gia cũng mang lại những lợi ích đáng kể, thiết thực cho các bên tham gia, đóng góp vào sự phát triển kinh tế, giao lưu thương mại quốc gia.

– Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin, nghiên cứu xây dựng và phát triển tòa án điện tử. Đây là một xu hướng phát triển không thể đảo ngược trong thời đại cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Dựa trên những kết quả ban đầu đã đạt được trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, thúc đẩy văn hóa sử dụng công nghệ trong hệ thống tòa án, cần có những chiến lược toàn diện, tổng hợp và dài hạn hơn trong lĩnh vực phát triển ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng tòa án điện tử, tiến tới Tòa án thông minh trong thập kỷ tới.

 

PGS.TS NGUYỄN HÒA BÌNH - Chánh án TANDTC.