Tình tiết giảm nhẹ phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) tại Điều 51 BLHS có sửa đổi, bổ sung những quy định mới so với luật cũ là tình tiết “Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra” . Do quy định mới nên còn có những quan điểm khác nhau về tình tiết này.

1. Khái niệm

Theo quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51 BLHS, ta có thể hiểu là "Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra" là trường hợp khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội không đủ tỉnh táo để nhận biết một cách đầy đủ mức độ nguy hiểm cũng như hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra. Sự hạn chế khả năng nhận thức của người phạm tội là do yếu tố khách quan tác động, chứ không phải do bản thân người phạm tội gây ra.

Tình tiết “phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra” là tình tiết mới được bổ sung vào BLHS năm 2015. Đối với tình tiết này mặc dù chưa có hướng dẫn cụ thể nhưng có thể hiểu theo tinh thần của quy định này là một số trường hợp, người thực hiện hành vi phạm tội trong khi bị hạn chế khả năng nhận thức do nguyên nhân khách quan chẳng hạn như bị cưỡng ép, lừa gạt để sử dụng chất kích thích mạnh... Vì vậy, đối với trường hợp phạm tội khi hạn chế khả năng nhận thức không phải do lỗi của mình sẽ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào mức độ bị hạn chế khả năng nhận thức do yếu tố khách quan mang lại.

2. Phân biệt với các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm m, q khoản 1 Điều 51 BLHS.

Với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51 BLHS chúng ta cần phân biệt với các tình tiết giảm nhẹ “phạm tội do lạc hậu” (điểm m khoản 1 Điều 51) và tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình (điểm q khoản 1 Điều 51). Cả 3 tình tiết giảm nhẹ này đều liên quan đến khả năng nhận thức của người phạm tội, nhưng nguyên nhân dẫn đến hạn chế khả năng nhận thức là khác nhau. Hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra có nguyên nhân khách quan tác động trực tiếp đến khả năng nhận thức của người phạm tội.

Tình tiết quy định tại điểm m khoản 1 “phạm tội do lạc hậu” cũng là một tình tiết được giữ nguyên từ BLHS năm 1999 và phản ánh mức độ lỗi của người phạm tội. Trường hợp phạm tội này là do sự hạn chế về mặt nhận thức do trình độ lạc hậu, thấp kém, đi chậm so với tiến trình phát triển chung của xã hội. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự lạc hậu như yếu tố địa lý (sinh sống ở vùng xa xôi, hẻo lánh), yếu tố dân tộc (người dân tộc thiểu số), yếu tố văn hóa tín ngưỡng (mê tín, hủ tục)… Khi cân nhắc việc giảm nhẹ đối với trường hợp này, Tòa án cần xem xét mức độ lạc hậu của người phạm tội trong mối quan hệ với các yếu tố ảnh hưởng đến sự lạc hậu.

Tình tiết giảm nhẹ TNHS “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình” quy định tại điểm q khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 là tình tiết đã được quy định từ BLHS năm 1999. Tình tiết này ảnh hưởng đến mức độ lỗi của người phạm tội vì người phạm tội ở đây là người mắc bệnh dẫn đến hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Lỗi của người phạm tội trong trường hợp này là lỗi hạn chế, do đó, trách nhiệm hình sự của họ cũng hạn chế, họ được giảm nhẹ so với những trường hợp phạm tội thông thường. Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào mức độ ảnh hưởng của bệnh tật tới khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của họ.

3. Có quan điểm khác nhau về áp dụng điểm l khoản 1 Điều 51 BLHS

Ví dụ: A và B là bạn thân, thường hay uống rượu với nhau. A nhận thấy bản thân suy nhược, và có biểu hiện bồn chồn, lo lắng khi thiếu rượu, bia nên quyết tâm không dùng rượu, bia nữa. B nhiều lần rủ A tham gia nhậu nhẹt cùng bạn bè nhưng A lấy nhiều lý do khác nhau để từ chối lời mời của B. Một hôm, A sang nhà B chơi, biết A không dùng rượu nữa nên B lấy rượu đổ vào ½ lon nước ngọt cocacola và trộn đều cùng một phần nhỏ nước ngọt và nói “uống nước đi”. Do cứ tưởng là nước ngọt nên A cầm và uống một ngụm lớn, biết mình bị lừa nên A không uống nữa và tức giận ra về. Trên đường về A nhìn thấy cây ATM ở bên đường nên vào trộm tiền nhưng không lấy được tiền, nhưng lấy 1 camera (trị giá 3.500.000 đồng). Sau khi trộm được tài sản, A ra về và bị nhân viên quản lý ATM  bắt giữ… Sau đó A có những biểu hiện bất thường nên CQTHTT tiến hành trưng cầu giám định pháp y tâm thần đối với A.

Trung tâm giám định pháp y tâm thần M.T kết luận: Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, A bị trạng thái loạn thần cấp tính xảy ra do rượu (say rượu bệnh lý); Về mặt pháp luật: Hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.

Viện kiểm sát quân sự H truy tố bị can A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. Bị can A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51 BLHS.

Qua trường hợp trên, về tội danh thì bị can A phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS. Tuy nhiên có các quan điểm khác nhau về áp dụng tình tiết giảm nhẹ đối với A.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Trước hết cần hiểu say rượu bệnh lý là trạng thái loạn thần cấp tính xảy ra do uống rượu trong một khoảng thời gian ngắn không chỉ với lượng rượu lớn mà ngay cả khi chỉ uống một lượng rượu nhỏ nhưng vẫn bị say do cơ thể có sự suy yếu hoặc mẫn cảm đặc biệt đối với rượu. Đặc điểm của say rượu bệnh lý phát sinh sau khi uống rượu không phụ thuộc vào số lượng và loại rượu uống, rượu chỉ là một tác nhân dẫn đến say, có khi chỉ một lượng nhỏ…

A bị hạn chế khả năng nhận thức do việc uống rượu nhưng do bạn là B lừa dối (A cũng đã quyết tâm từ bỏ rượu nên đã nhiều lần từ chối lời mời của B), khi uống một lượng nhỏ rượu A bị say (say rượu bệnh lý) làm hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi dẫn đến việc A thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Hiện nay, pháp luật không thừa nhận “say rượu bênh lý” là bệnh để loại trừ trách nhiệm hình sự khi bị can thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (khi mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi). Như vậy, A phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS và được áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS “Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra” theo quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51BLHS.

Quan điểm thứ hai và cũng là quan điểm của tác giả: A phạm tội trong trường hợp bị say rượu bệnh lý và cho rằng say rượu bệnh lý là một bệnh chứ không phải say rượu thông thường nên không thuộc trường hợp quy định tại Điều 13 BLHS. Theo quy định tại Điều 21 BLHS, thì người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình là người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Mặt dù pháp luật không quy định cụ thể nhưng có đề cập đến bệnh khác và quan điểm cho rằng bệnh khác ở đây cũng có thể là “say rượu bệnh lý”... Như vậy, việc A bị bệnh (bệnh lý về rượu) làm hạn chế khả năng nhận thức dẫn đến việc phạm tội. Nên trong trường hợp của A phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS và được áp dụng tình tiết tình tiết giảm nhẹ TNHS “người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình” theo quy định tại điểm q khoản 1 Điều 51 BLHS.

4. Một số đề xuất, kiến nghị

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51 là quy định mới trong BLHS, các cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể trong các trường hợp như thế nào là bị hạn chế khả năng nhận thức không phải do lỗi của mình gây ra để giúp người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng hiểu rõ hơn, áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn. 

Theo quy định tại Điều 21 BLHS: Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS. Vậy “một bệnh khác” cụ thể như thế nào? Để có căn cứ áp dụng pháp luật (như việc định tội, loại trừ hoặc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS) cho thống nhất. 

Hiện nay tình trạng dùng rượu rất phổ biến, trong đó có cả trường hợp bị ép, cưỡng bức người dùng rượu, bia và các chất kích thích khác. Đối với người bị ép uống rượu, bia (chất kích thích mạnh khác) dẫn đến việc bị hạn chế khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không nên áp dụng tình tiết tăng nặng định khung đối với họ (như Điều 260, 267 và 272 BLHS). Đồng thời, cần phải có chế tài xử lý hình sự đối với người ép, cưỡng bức người khác dùng rượu bia, chất kích thích khác làm cho người đó mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi gây nguy hiểm cho xã hội (tội phạm).

 

TAND Tp Cần Thơ xét xử bị cáo bị rối loạn nhân cách và hành vi do sử dụng rượu - Ảnh: Dương Thanh An

NGUYỄN TẤT TRÌNH (TAQS khu vực 1 Quân khu 5)