Bàn về nghĩa vụ chứng minh của bị đơn trong tố tụng dân sự - Một số vướng mắc và kiến nghị

Việc chậm, trễ cung cấp chứng cứ của các đương sự trong các vụ án dân sự là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tồn đọng án, làm cho quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự chưa được bảo đảm, hiệu quả thực thi pháp luật chưa cao.

Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự được quy định tại BLTTDS 2015, cụ thể tại khoản 1 Điều 91 quy định: “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp…”. Đó là những quy định khoa học, phù hợp. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động xét xử cho thấy nhận thức pháp luật của các bên đương sự tham gia vụ, việc dân sự chưa đầy đủ, rõ ràng, và việc thực hiện nghĩa vụ chưa đầy đủ, hoặc cố tình thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ chứng minh của mình, nhất là việc thu thập chứng cứ để chứng minh của đương sự khi chứng cứ đó không có sẵn mà ở các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, hoặc đương sự không đủ điều kiện để thu thập chứng cứ, hay việc yêu cầu cung cấp chứng cứ của đương sự đối với các cơ quan có thẩm quyền hiện nay rất hạn chế... và nghĩa vụ chứng minh của bị đơn trong những trường hợp vừa nêu là rất khó khăn. 

1. Cơ sở pháp lý và vướng mắc trong thực tiễn

1.1. Cơ sở pháp lý

Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 97 BLTTDS 2015 thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ bằng biện pháp “yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp những tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ việc mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý”; Tại Điều 106 BLTTDS 2015 quy định “cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ cho đương sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp không cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người có yêu cầu” (khoản 1) và “trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập tài liệu, chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp cho mình hoặc đề nghị Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn. Đương sự yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ phải làm đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh; tài liệu, chứng cứ cần thu thập; lý do mình không tự thu thập được; họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ cần thu thập” (khoản 2).

1.2. Một số vướng mắc trong thực tiễn

Điều 7 BLTTDS 2015 quy định trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền” là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng dân sự. Theo đó, cơ quan, tổ chức, cá nhân (chủ thể có thẩm quyền) trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó. Trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Thực tế khi cá nhân, đương sự liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cá nhân nói chung và bị đơn nói riêng đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc tranh chấp mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân nói chung, bị đơn nói riêng có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ cho cá nhân đương sự yêu cầu thì không trả lời bằng văn bản cho đương sự lý do mà họ từ chối cung cấp tài liệu, chứng cứ. Việc từ chối thường thể hiện bằng lời nói, thái độ, cử chỉ, nên đương sự khó có thể chứng minh là mình đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập tài liệu, chứng cứ. Cơ quan hành chính nhà nước và cơ quan chuyên môn như cơ quan tài nguyên môi trường, nhà đất, hải quan lưu trữ, xuất nhập cảnh, ngân hàng, Ủy ban nhân dân… là nơi thường xuyên nắm giữ những thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ việc dân sự nhưng nhiều khi cán bộ các cơ quan này thiếu sự hợp tác tích cực trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của đương sự thậm chí có trường hợp Tòa án yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ còn gặp trở ngại[1].

Mặt khác theo nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ chứng minh, Tòa án chỉ giải quyết vụ án dựa vào các chứng cứ mà các bên cung cấp. Bên nào không cung cấp hoặc cung cấp chứng cứ yếu hơn sẽ bị chịu bất lợi. Theo tinh thần đó thì đương sự cung cấp chứng cứ đến đâu Tòa án xét xử đến đó. Chân lý trong tố tụng dân sự luôn là chân lý cụ thể và tương đối. Khả năng chứng minh của bên nào cao hơn và thuyết phục hơn sẽ thắng cho dù sự thật diễn ra trên thực tế chưa chắc đã đúng là như vậy. Vấn đề tưởng như đơn giản, nhưng trên thực tế, các Thẩm phán chưa được tập làm quen với cách phán xử như vậy.

Tư duy truyền thống luôn đặt mục tiêu tìm hiểu sự thật khách quan đã diễn ra hơn là chấp nhận sự thật nằm trong phạm vi từng chứng cứ do các bị đơn chứng minh. Vì thế, nếu trong vụ án có những chứng cứ then chốt mà các bị đơn không xuất trình hoặc Tòa án không thu thập được thì rất nhiều Thẩm phán e ngại khi đưa ra phán quyết vì sợ rằng phán quyết đó không phù hợp với sự thật khách quan của vụ án. Sự lo lắng của các Thẩm phán về điều trên còn có cơ sở hơn nữa khi trong luật không giới hạn về thời điểm cung cấp chứng cứ. Vì thế, trong nhiều trường hợp bên bị đơn để muốn kéo dài thời gian đã cố tình không xuất trình những chứng cứ quan trọng khi được Thẩm phán thông báo. Sau đó đến tận khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm họ lại xuất trình những chứng cứ này. Những chứng cứ này có ảnh hưởng quan trọng tới việc xác định sự thật khách quan của vụ án và vấn đề xác định những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Do vậy, cấp phúc thẩm đã hủy án sơ thẩm để xét xử lại. Như vậy, Thẩm phán cấp sơ thẩm sẽ bị tính lỗi trong quá trình giải quyết vụ án và điều đó có nguy cơ ảnh hưởng tới việc tái bổ nhiệm sau này. Bởi vậy họ có xu hướng kéo dài thời gian giải quyết để có thời gian thu thập đầy đủ các chứng cứ thì mới tiến hành đưa vụ án ra xét xử[2].

Theo quy định Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi có một trong các căn cứ sau đây: “Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án”[3]. Do đó, có một số vụ án tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án kéo dài đến 2-3 năm mà không ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án vì cơ quan, tổ chức chưa cung cấp tài liệu, chứng cứ nên không giải quyết vụ án được.

Theo đó, Điều 106 BLTTDS năm 2015 quy định: Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nhưng hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn việc xử lý đối với cơ quan, tổ chức không cung cấp hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án không đúng thời hạn theo quy định của BLTTDS năm 2015, dẫn đến Tòa án giải quyết vụ án chậm, kéo dài, gây bức xúc cho đương sự.

BLTTDS năm 2015 bổ sung các quy định về thời hạn cung cấp chứng cứ nhằm nâng cao trách nhiệm chứng minh của đương sự. Theo đó, các đương sự phải cung cấp chứng cứ trong thời hạn do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc dân sự ấn định, nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 96, Điều 287 và Điều 330 BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, chứng cứ không được chấp nhận do đương sự cung cấp đã quá thời hạn cung cấp mà Thẩm phán ấn định có thể lại được Thẩm phán thu thập theo khoản 2 Điều 97 BLTTTDS 2015 không? Vấn đề này cũng có những ý kiến khác nhau. 

Có ý kiến cho rằng, do đã hết thời hạn cung cấp chứng cứ mà không có lý do chính đáng nên chứng cứ này sẽ không được Thẩm phán thu thập kể cả trong trường hợp chứng cứ đó có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc. Ý kiến khác lại cho rằng, với các biện pháp thu thập chứng của Tòa án được quy định tại khoản 2 Điều 97 BLTTDS 2015 thì Thẩm phán hoàn toàn có quyền thu thập chứng cứ này nhằm bảo đảm Tòa án có đầy đủ chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự chính xác.

Về nguyên tắc, tất cả các chứng cứ mà đương sự cung cấp khi đã quá thời hạn cung cấp do Thẩm phán ấn định mà không có lý do chính đáng đều không được chấp nhận nhằm nâng cao trách nhiệm chứng minh của đương sự, tránh tình trạng các đương sự thiếu trung thực trong việc cung cấp chứng cứ. Tuy nhiên, với trách nhiệm hỗ trợ thu thập chứng cứ của Tòa án quy định trong BLTTDS 2015 thì Tòa án có thể thu thập các chứng cứ này để làm căn cứ cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Điều này đã tự nhiên làm cho các quy định về thời hạn cung cấp chứng cứ trở thành không có ý nghĩa cũng như dẫn đến tình trạng Tòa án có thể thiếu công bằng, khách quan trong việc thu thập chứng cứ khi cố ý thiên vị cho một bên đương sự.

Quy định tại khoản 5 Điều 96 BLTTDS 2015 về nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ giữa các đương sự luôn là hình thức khi mà BLTTDS 2015 không quy định về thời hạn các đương sự có nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ cho nhau và hậu quả pháp lý khi các bên đương sự không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao. Thực tế hiện nay ở tại các Tòa án, do không có quy định về hậu quả pháp lý nên gần như các đương sự không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ cho nhau. Các bên có thể yêu cầu Thẩm phán buộc bên kia phải thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ mà đương sự chưa thực hiện trong thời hạn nhất định. Nếu không thực hiện thì có thể bị phạt tiền để cưỡng chế thực hiện, không xem xét tài liệu, chứng cứ không được trao đổi trong thời hạn đã ấn định. Do đó, để phát huy vai trò của đương sự trong hoạt động tố tụng, bảo đảm quyền được biết thông tin của đương sự để có thể tổ chức việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như phù hợp pháp luật tố tụng dân sự của các nước trên thế giới, cần thiết bổ sung vào BLTTDS 2015 quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ trao đổi chứng cứ, tài liệu của các bên đương sự cho nhau trước khi mở phiên tòa và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đó.

2. Một số đề xuất, kiến nghị

Từ thực tiễn đã phân tích, tác giả xin đề xuất, kiến nghị:

Một là, khoản 5 Điều 96 BLTTDS 2015 nên sửa đổi, bổ sung theo hướng: “Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải thực hiện ngay việc sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo ngay bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác.

Trong trường hợp đương sự cố tình không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho bên kia thì theo yêu cầu của đương sự, Tòa án buộc bên đương sự đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ phải cung cấp tài liệu, chứng cứ đó trong thời hạn do thẩm phán ấn định, nhưng không vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự. Nếu hết thời hạn này, đương sự vẫn không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ thì bị phạt tiền và thẩm phán sẽ không chấp nhận những tài liệu, chứng cứ không được các bên đương sự trao đổi trong thời hạn đã được Thẩm phán ấn định.

Bị đơn đóng vai trò trung tâm, nòng cốt trong quá trình xác định sự thật của vụ án, họ có trách nhiệm chủ động, tích cực thu thập, giao nộp, đánh giá tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Bên cạnh đó pháp luật cũng quy định trách nhiệm hỗ trợ của Tòa án trong việc tạo điều kiện để bị đơn thu thập chứng cứ khi bị đơn đã tiến hành tất cả các biện pháp mà không thể tự mình thu thập được tài liệu chứng cứ và yêu cầu Tòa án hỗ trợ. Quy định nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự thuộc về đương sự nói chung, bị đơn nói riêng là bảo đảm nguyên tắc tự định đoạt trong các quan hệ mang tính chất tư, nếu các đương sự không cung cấp, hoặc cung cấp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án, tức thực hiện không tốt nghĩa vụ chứng minh thì có thể phải chịu bất lợi từ việc Tòa án sẽ giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ.

Hai là, hoàn thiện các chế tài đối với việc không thực hiện nghĩa vụ sao gửi tài liệu cho các đương sự khác khi giao nộp tài liệu cho Tòa án. Chỉ khi đương sự có khả năng thu thập và tiếp cận tài liệu chứng cứ thì mới có điều kiện để họ có sự chuẩn bị cần thiết cho việc tranh tụng với nhau tại phiên tòa, đưa ra các ý kiến đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho hoạt động đánh giá chứng cứ của Tòa án.

Ba là, nâng cao hiệu quả của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ. Đây là phương thức để các bên trao đổi chứng cứ, bổ sung tài liệu, chứng cứ (nếu có); trao đổi ý kiến và xác nhận những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết; trình bày ý kiến về những vấn đề cần thiết khác... Tuy nhiên, cần nghiên cứu tổ chức phiên họp về đánh giá chứng cứ trước phiên tòa sơ thẩm nhằm xác định tính đầy đủ của chứng cứ đối với yêu cầu của các bên cũng như xác định các chứng cứ được sử dụng trong việc giải quyết vụ việc dân sự.

Bốn là, TANDTC cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này theo hướng: Tòa án không được thu thập các chứng cứ mà đương sự đã cung cấp quá thời hạn cung cấp chứng cứ nhằm nâng cao trách nhiệm chứng minh của đương sự cũng như bảo đảm sự công bằng, khách quan trong việc thu thập chứng cứ của Tòa án. 

 

HÀ ĐỨC QUANG (TAND huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai)

[1] Tưởng Duy Lượng, Bình luận Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Trọng tài thương mại và thực tiễn xét xử, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2017.

[2] Nguyễn Thị Mai Phương, chuyên đề “giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế - Học viện Khoa học xã hội, năm 2018, tr.20.

[3] Điểm đ khoản 1 Điều 214 BLTTDS 2015.

Toà án nhân dân thị xã Kinh Môn, Hải Dương xét xử vụ án dân sự- Ảnh: Chu Đức Anh