Trao đổi ý kiến đối với bài viết “Đã rút đơn yêu cầu thi hành về giao con, làm sao để thi hành bản án buộc cha giao trả con chung?”

Sau khi nghiên cứu bài viết “Đã rút đơn yêu cầu thi hành về giao con, làm sao để thi hành bản án buộc cha giao trả con chung?” của tác giả Trần Tú Anh - Huỳnh Minh Khánh - Cao Ngọc Nhẫn (TAND khu vực 5 - Đồng Tháp) đăng ngày 06/8/2025, đối với hai quan điểm được nêu trong bài viết, tôi xin đưa ra quan điểm cá nhân cùng trao đổi với các đồng nghiệp.

Có thể thấy, đây là tình huống thực tiễn khá điển hình, phát sinh trong quá trình thi hành bản án hôn nhân và gia đình có nội dung giao con. Tuy nhiên, tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất cho rằng, không có căn cứ để khởi kiện lại vụ việc đã được giải quyết bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật. Việc không thực hiện nghĩa vụ giao con là hành vi vi phạm nghĩa vụ thi hành án dân sự và cần được xử lý theo Luật Thi hành án dân sự, chứ không phải bằng một vụ kiện dân sự mới. Các lập luận cụ thể cho nhận định này như sau:

Thứ nhất, sự việc đã được giải quyết bằng bản án có hiệu lực pháp luật, không được khởi kiện lại.

Quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh H, cùng quyền nuôi dưỡng hai con chung đã được Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm và phúc thẩm giải quyết dứt điểm tại Bản án số 29/2023/HNGĐ-PT ngày 18/4/2023, đã có hiệu lực pháp luật. Bản án tuyên giao hai con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng và không buộc anh H phải cấp dưỡng nuôi con. Sự việc sau khi bản án có hiệu lực, chị N đã làm đơn yêu cầu thi hành án về việc giao con, tuy nhiên, sau đó chị N đã tự nguyện rút đơn và có văn bản yêu cầu đình chỉ thi hành án, đồng nghĩa với việc từ bỏ toàn bộ quyền lợi phát sinh từ bản án.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 50 và khoản 2 Điều 52 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án có quyền rút đơn yêu cầu thi hành án và việc thi hành án được xem là chấm dứt nếu người yêu cầu thi hành án rút đơn, trừ trường hợp nghĩa vụ không thể từ bỏ. Trong trường hợp này, việc rút đơn là hợp pháp, xuất phát từ ý chí tự nguyện của người được thi hành án, nên việc thi hành án đã chấm dứt, không còn hiệu lực thi hành.

Mặt khác, theo điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thì Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp “sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Đây là quy định mang tính bắt buộc, nhằm bảo đảm nguyên tắc một vụ việc chỉ được xét xử một lần, đảm bảo tính ổn định và hiệu lực thi hành của bản án. Như vậy, việc chị N tiếp tục khởi kiện lại vụ việc đã được giải quyết là không có căn cứ pháp luật và trái với nguyên tắc tố tụng.

Thứ hai, không có căn cứ pháp lý để khởi kiện yêu cầu “chấm dứt hành vi cản trở việc nuôi con”.

Lập luận cho rằng anh H có hành vi “cản trở trái pháp luật” trong việc chị N thực hiện quyền nuôi con là một hình thức tái diễn lại nội dung đã được xét xử, không làm phát sinh một quan hệ pháp luật tranh chấp mới, mà chỉ là hành vi không chấp hành bản án đã có hiệu lực pháp luật.

Về nguyên tắc, nếu một bản án dân sự đã xác định quyền nuôi con thuộc về một bên, thì hành vi cản trở việc thực hiện quyền nuôi con không làm phát sinh một “tranh chấp mới” mà là vi phạm nghĩa vụ thi hành bản án, thuộc phạm vi giải quyết của cơ quan thi hành án dân sự. Nếu thừa nhận việc khởi kiện lại bằng cách “đổi tên” nội dung tranh chấp, chẳng hạn như từ “giao con” thành “ngăn cản quyền nuôi con” thì sẽ tạo ra tiền lệ, làm phát sinh các vụ kiện lặp lại một cách hình thức, gây quá tải cho hệ thống Tòa án, đồng thời vô hiệu hóa hiệu lực của bản án đã tuyên.

Thực chất, việc anh H không giao con hoặc có hành vi cản trở thực hiện bản án (nếu có) phải được xử lý thông qua cơ chế cưỡng chế thi hành án, theo quy định tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự. Không thể dùng một vụ án dân sự mới để thay thế chức năng của cơ quan thi hành án, vốn là cơ quan chuyên trách được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

Thứ ba, không thể áp dụng tương tự quy định về quyền sử dụng đất trong trường hợp này.

Tác giả bài viết viện dẫn tình huống về việc người có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị người khác cản trở để cho rằng vẫn có thể khởi kiện “tranh chấp quyền sử dụng” là không phù hợp bản chất pháp lý.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý thể hiện quyền tài sản lâu dài, có thể chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp hoặc bị chiếm dụng trái phép, từ đó phát sinh các tranh chấp dân sự độc lập với bản án. Trong khi đó, bản án giao con là có hiệu lực bắt buộc, không làm phát sinh quyền sở hữu hay quyền định đoạt lâu dài mà thi hành tức thời.

Việc thực hiện quyền nuôi con không được giao cho cá nhân tự bảo vệ thông qua việc khởi kiện độc lập như trong các tranh chấp tài sản, mà phải thông qua cơ chế thi hành án dân sự, với các biện pháp cưỡng chế cần thiết. Do đó, không thể lấy tình huống tranh chấp quyền sử dụng đất để “tương tự hóa” cho quyền nuôi con sau bản án, vì bản chất pháp lý hoàn toàn khác nhau.

Thứ tư, về nguyên tắc bình đẳng, tự định đoạt và trách nhiệm pháp lý khi thực hiện quyền tố tụng.

Chị N đã tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án, đồng nghĩa với việc từ bỏ quyền được hưởng từ bản án. Pháp luật dân sự và tố tụng dân sự ghi nhận quyền khởi kiện, quyền yêu cầu thi hành án nhưng cũng đồng thời ràng buộc trách nhiệm từ hành vi thực hiện quyền đó. Khi đã lựa chọn không yêu cầu thi hành án, thì phải chấp nhận hệ quả pháp lý là không thể khởi kiện lại để được xét xử cùng một nội dung.

Nguyên tắc “tự định đoạt” không đồng nghĩa với việc có thể lặp lại các thủ tục tố tụng một cách vô hạn. Việc quay lại khởi kiện một nội dung đã được xét xử và từ chối thi hành án chỉ vì muốn dùng một thủ tục khác để đạt được mục đích là trái với nguyên tắc ổn định pháp luật, làm phát sinh hậu quả kéo dài vụ việc, gây lãng phí nguồn lực xét xử và tạo ra tình trạng “lách luật” trong hệ thống Tòa án và cơ chế thi hành án dân sự.

Từ nội dung tình huống trên và những quan điểm còn khác nhau, tác giả kiến nghị hướng xử lý đối với trường hợp này như sau:

Thứ nhất, kiến nghị Cơ quan Thi hành án dân sự xem xét trách nhiệm của chấp hành viên (nếu có sai sót trong quá trình đình chỉ thi hành án).

Thứ hai, hướng dẫn chị N nộp đơn yêu cầu thi hành án mới, nếu chưa lập biên bản kết thúc thi hành án hoặc chưa có quyết định đình chỉ theo khoản 1 Điều 52 Luật Luật Thi hành án dân sự.

Thứ ba, trường hợp có dấu hiệu chiếm giữ trẻ em, bắt cóc, có thể tiếp tục yêu cầu cơ quan điều tra xác minh lại theo trình tự khiếu nại tố giác tội phạm.

Thứ tư, đề nghị Tòa án hạn chế quyền thăm con của anh H nếu có căn cứ theo Điều 87 Luật Hôn nhân và gia đình.

Kết luận

Việc chị N rút đơn yêu cầu thi hành án là hành vi tự định đoạt hợp pháp nhưng dẫn đến hậu quả pháp lý là chấm dứt việc thi hành. Việc khởi kiện lại để yêu cầu giao con là trái quy định pháp luật. Để bảo đảm sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất của bài viết và cho rằng Tòa án cần trả lại đơn khởi kiện của chị N theo điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Trên đây là quan điểm của cá nhân tôi, rất mong nhận được nhiều ý kiến của các đồng nghiệp để việc áp dụng pháp luật được thống nhất.

NGUYỄN TIẾN OAI (Tòa án nhân dân Khu vực 4 - Khánh Hòa)

TAND huyện Tiên Phước, Quảng Nam xét xử rút kinh nghiệm vụ án “Ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” - Ảnh: VP.