Bàn về thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài theo dự thảo về mô hình tổ chức Tòa án nhân dân mới

Bài viết tập trung phân tích về cải cách mô hình tổ chức của Tòa án nhân dân, các cơ sở, tính hợp lý và những vướng mắc khi thay đổi quyền xét xử sơ thẩm các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài theo đề xuất của Tòa án tại Việt Nam.

1. Mô hình tổ chức, thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án theo quy định hiện hành và theo dự thảo1

Theo quy định tại Điều 4 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TCTAND) năm 2024 quy định về tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) gồm có: TAND tối cao; TAND cấp cao; TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; TAND sơ thẩm chuyên biệt Hành chính, TAND sơ thẩm chuyên biệt Sở hữu trí tuệ, TAND chuyên biệt Phá sản (sau đây gọi chung là TAND sơ thẩm chuyên biệt) và Tòa án quân sự trung ương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực (sau đây gọi chung là Tòa án quân sự)2.

Bên cạnh thẩm quyền giải quyết án theo lãnh thổ, pháp luật hiện hành quy định thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự theo cấp như sau:

Theo quy định tại các điều 35, 37 BLTTDS 2015, TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau đây:

-  Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26;

- Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30;

- Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32;

- Yêu cầu về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 8, 9 và 10 Điều 27;

- Yêu cầu về hôn nhân và gia đình quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 29;

- Yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 31;

- Yêu cầu về lao động quy định tại khoản 1 và khoản 5 Điều 33;

- Hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam.

Trong khi thẩm quyền của TAND cấp tỉnh giải quyết sơ thẩm các tranh chấp, bao gồm:

- Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 35;

- Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 27, 29, 31 và 33, trừ những yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 35;

- Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 37 mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 37.

Ngoài ra, TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết phúc thẩm các bản án, quyết định của TAND cấp huyện có kháng cáo, kháng nghị.

Như vậy, có thể thấy, thẩm quyền giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài ngoại trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 37 BLTTDS 2015 theo quy định hiện hành là của TAND cấp tỉnh. Tuy nhiên, thực hiện theo Kết luận của Bộ Chính trị về việc không tổ chức TAND cấp cao, TAND sơ thẩm chuyên biệt, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TCTAND đã thay thế các TAND cấp huyện bằng TAND khu vực. Theo Công văn số 52/TANDTC-KHTC ngày 28/02/2025 của TAND tối cao[1] về việc tham gia ý kiến đối với phương án tổ chức lại hệ thống Tòa án nhân dân (Tòa án nhân dân) theo Nghị quyết 18-NQ/TW cũng như đề xuất theo dự thảo, chúng ta có thể hiểu, sự sáp nhập của TAND các huyện cũ chính là việc hình thành các TAND khu vực.

Theo dự thảo Luật sửa đổi của các văn bản luật như: BLTTDS, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì thẩm quyền TAND khu vực là giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp, yêu cầu theo quy định tại các điều 26, 27, 28, 29, 30, 31, 32 và 33 của BLTTDS, trong khi TAND cấp tỉnh chỉ có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục phúc thẩm những vụ việc mà bản án, quyết định của TAND khu vực chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định. Như vậy, thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ việc dân sự nói chung và các vụ án vụ án có yếu tố nước ngoài nói riêng đều thuộc về TAND khu vực.

Điều này đặt ra vấn đề là liệu TAND khu vực (kế thừa việc sáp nhập các TAND cấp huyện) có đủ “năng lực” giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài hay không? Để trả lời cho câu hỏi này, tác giả tập trung vào hai vấn đề chính: (1) Sự phù hợp của các quy định liên quan? và (2) Nguồn lực cán bộ và cơ sở vật chất.

2. Đánh giá tính phù hợp trong việc giao thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các vụ việc dân sự nói chung và các vụ án vụ án có yếu tố nước ngoài nói riêng về Tòa án nhân dân khu vực

2.1. Sự phù hợp của mô hình mới đối với các quy định liên quan

Một trong những vấn đề được đặt ra đầu tiên đối với bản chất đặc thù của “yếu tố nước ngoài” đó là liên quan đến ngôn ngữ. Theo quy định của BLTTDS thì tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự là tiếng Việt[2] và mọi tài liệu, chứng cứ có ngôn ngữ nước ngoài phải được dịch thuật công chứng để trở thành tài liệu, chứng cứ hợp pháp. Với sự phát triển của khoa học công nghệ cũng như sự phổ biến của các trung tâm dịch thuật như hiện nay, việc dịch thuật, công chứng đã không còn là rào cản lớn trong việc thực thi pháp luật đối với các TAND khu vực.

Ngoài ra, tồn tại một vấn đề cần được giải quyết khi phân thẩm quyền mới liên quan đến việc ủy thác tư pháp. Theo Luật Tương trợ tư pháp hiện hành, chỉ có TAND cấp tỉnh mới có thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp trong nước và thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp của nước ngoài, vì vậy, đã gắn thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài cho TAND cấp tỉnh. Tuy nhiên, hiện nay, Quốc hội và các cơ quan liên quan đang gấp rút thực hiện việc xây dựng riêng Luật Tương trợ tư pháp về dân sự để “hoàn thiện pháp luật tương trợ tư pháp về dân sự theo hướng hiện đại, khả thi, thúc đẩy hợp tác quốc tế, hỗ trợ quy trình giải quyết các vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng) và vụ án hành chính có yếu tố nước ngoài được nhanh chóng, chính xác và hiệu quả; giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng có liên quan, tăng cường khả năng thực hiện quyền tiếp cận công lý của người dân; tạo nền tảng cho việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về dân sự”[3]. Theo đó, trong dự thảo Luật có sự mở rộng về thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp, quy định Tòa án nhân dân nói chung có thể hiểu là các cấp đều là cơ quan có thẩm quyền thực hiện tương trợ tư pháp.[4] Việc mở rộng thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự cho TAND các cấp là phù hợp với yêu cầu thực tiễn và giải quyết khúc mắc khi TAND khu vực được phân quyền giải quyết sơ thẩm toàn bộ các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.

2.2. Nguồn lực cán bộ và cơ sở vật chất

2.2.1. Sự chuẩn bị đầy đủ về nguồn lực cán bộ

Thực tế sự thay đổi này đã được đặt ra như một nhiệm vụ cải cách tư pháp tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tại Mục 2.2 đã xác định rõ: “Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm…”. Như vậy, chủ trương sáp nhập một số đơn vị hành chính cấp huyện để thành TAND khu vực đã được đưa ra từ rất lâu nhưng đến nay mới được thực hiện trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII.

Sự thay đổi này mang tính cách mạng trong cách nhận thức, nhìn nhận của nhân dân đối với cơ quan tư pháp, trọng tâm là TAND. Nếu như trước đây, nhân dân thường có quan niệm Tòa án “huyện”, Thẩm phán “huyện” - “sơ cấp”, về mặt ngôn ngữ cho thấy địa vị chưa cao của cơ quan tư pháp, người có chức danh tư pháp. Thì thay vào đó, hiện nay, các quy định của Luật TCTAND cùng với Nghị quyết số 67/2025/UBTVQH15 ngày 06/02/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về bậc, điều kiện của từng bậc, việc nâng bậc và số lượng, cơ cấu tỷ lệ các bậc Thẩm phán Tòa án nhân dân đã xóa bỏ được hạn chế kể trên, cụ thể Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp được chuyển thành đều là Thẩm phán TAND và được phân bậc 1, 2 và 3 tùy vào những điều kiện cụ thể.            

Bên cạnh đó, trước đây việc phân cấp các Thẩm phán được cụ thể bằng các kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán tương ứng với từng cấp nên đã tạo ra khoảng cách lớn về mặt nhìn nhận trình độ, tiêu chuẩn chuyên môn giữa Thẩm phán các cấp. Theo quy định hiện hành thì chỉ còn có 01 kỳ thi để tuyển chọn Thẩm phán TAND. Việc này vô hình chung rút ngắn khoảng cách giữa Thẩm phán các bậc vì ngoài yếu tố kinh nghiệm và các điều kiện về hiệu quả công việc thì tiêu chuẩn về chuyên môn được đánh giá qua kỳ thì tuyển chọn là gần như không còn tồn tại vì đều đã vượt qua khi được bổ nhiệm Thẩm phán TAND.

Theo quy định hiện hành, thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là của TAND cấp tỉnh nơi có thành phần chủ yếu là Thẩm phán Trung cấp thì nay với việc các Thẩm phán đều là Thẩm phán TAND được phân bổ tại TAND khu vực thì việc giải quyết các loại vụ việc này dù là ở cấp nào cũng không bị nhìn nhận là chưa đủ trình độ chuyên môn.

Một khía cạnh nữa cũng cần phải nói đến đó là, quy định về phân bổ Thẩm phán, theo như quy định tại Nghị quyết số 67/2025/UBTVQH15, TAND cấp tỉnh sẽ có Thẩm phán TAND bậc 2 và 3 trong khi TAND cấp huyện (nay sẽ được sáp nhập lại thành TAND khu vực) sẽ có Thẩm phán TAND bậc 1 và 2. Như vậy, ở cả TAND khu vực và cấp tỉnh đều sẽ có Thẩm phán TAND bậc 2 (tương đương Thẩm phán trung cấp tại quy định cũ) với tỷ lệ lên đến 30%[5]. Qua thực tiễn công tác thấy rằng, số lượng án các năm thì có thể nhận thấy số lượng vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong hệ thống hai cấp của TAND tỉnh thường có tỷ lệ khoảng 25-35% tổng số lượng vụ việc dân sự. Như vậy, việc phân bổ đến 30% số Thẩm phán là Thẩm phán bậc 2 là hoàn toàn có thể đáp ứng tương đương với số lượng vụ việc có yếu tố nước ngoài phát sinh thêm khi được giao thẩm quyền cho TAND khu vực.

2.2.2. Về cơ sở vật chất

Một vấn đề cần đặt ra khi giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài đó là việc sẽ phải tổ chức các phiên họp, phiên tòa trực tuyến đối với đương sự đang ở nước ngoài. Kể từ sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết số 33/2021/QH15[6], TAND tối cao đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn cũng như đẩy mạnh việc tổ chức phiên tòa trực tuyến. Bên cạnh đó, thực tế hiện nay, hầu hết các TAND cấp huyện cũng đã chuẩn bị những cơ sở vật chất cơ bản để phục vụ việc xét xử trực tuyến. Mặc dù Nghị quyết số 33/2021/QH15 chỉ giới hạn việc xét xử trực tuyến trong một chừng mực nhất định các vụ án cần đưa ra xét xử trực tuyến đều phải có đủ điều kiện theo quy định, tuy nhiên đây cũng là một tiền đề quan trọng thể hiện sự chuẩn bị sẵn sàng cho việc xây dựng Tòa án điện tử nói chung và “tố tụng trực tuyến” nói riêng.

Như vậy, rõ ràng có thể nhận thấy hệ thống TAND trong nhiều năm qua đã có sự chuẩn bị tương đối đầy đủ các điều kiện về con người cũng như cơ sở vật chất để có thể giao thẩm quyền giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài cho TAND cấp huyện nay sẽ sớm được xây dựng thành TAND khu vực; đồng thời, có đủ cơ sở pháp lý để thực hiện yêu cầu này.

3. Một số thách thức trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong mô hình mới và một số khuyến nghị 

Việc phân quyền giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nói riêng cho TAND khu vực đem lại sự thuận lợi vô cùng lớn trong việc tiếp cận công lý của nhân dân. Thay vì trước đây, để giải quyết các loại vụ việc này, công dân trong cả tỉnh sẽ phải lên làm việc tại TAND tỉnh nơi thường sẽ có khoảng cách lớn so với nơi cư trú của mình và ngược lại đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án khi giải quyết các vụ việc này cũng sẽ phải đi xa hơn để xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ. Thêm vào đó, hiện nay với việc sẽ sớm thực hiện sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh thì khoảng cách này sẽ còn lớn hơn và gây khó khăn hơn cho việc giải quyết nếu không có sự thay đổi. Chính vì thế, TAND các khu vực có thẩm quyền giải quyết các loại vụ việc này sẽ là lời giải cho cả hai vấn đề trên, vừa giúp công dân đến gần hơn với công lý cũng như việc Thẩm phán, cán bộ Tòa án được xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ tại địa bàn làm việc của mình giúp tăng hiệu quả công việc.

Tuy nhiên, để đạt được tối đa các hiệu quả nêu trên thì Tòa án cũng phải khắc phục một số tồn tại thực tế đó là:

- Về cơ sở vật chất: Tính đến thời điểm hiện tại, khi chưa thực hiện việc phân quyền mới thì cơ sở vật chất của ngành Tòa án nói chung đều chưa đạt được yêu cầu tương quan so với khối lượng công việc phải giải quyết, nhiều cơ sở được xây dựng đã lâu, chật hẹp, xuống cấp[7]. Tới đây, khi được phân quyền giải quyết thêm một số lượng tương đối các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài cộng thêm việc sáp nhập các TAND huyện thì chắc chắn cơ sở vật chất sẽ trở nên quá tải không thể đáp ứng được nhu cầu thiết yếu, cơ bản cho cả cán bộ công chức cùng công dân đến làm việc. Kết quả sẽ dẫn tới những ảnh hưởng không tốt đến chất lượng hoạt động của ngành.

- Về kinh nghiệm giải quyết: Mặc dù đã được phân tích ở trên về tiêu chuẩn trình độ của Thẩm phán tại TAND khu vực về cơ bản sẽ đủ để đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, tuy nhiên kinh nghiệm giải quyết các vụ án này đối với họ là chưa nhiều. Trong yêu cầu về cải cách tư pháp, đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ việc tại Tòa án thì kinh nghiệm, kỹ năng giải quyết là yếu tố tương đối quan trọng quyết định chất lượng. Do đó, trong thời gian đầu, chắc chắn sẽ có những sự chậm trễ phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài vì lý do kinh nghiệm.

- Về tỷ lệ phân bổ Thẩm phán TAND bậc 2 tại TAND khu vực: Mặc dù nếu chỉ xem xét trong phạm vi các vụ việc dân sự thì với tỷ lệ 30% Thẩm phán tại TAND khu vực là Thẩm phán TAND bậc 2 thì cơ bản đảm bảo. Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận rộng ra việc các Thẩm phán không chỉ giải quyết một loại án này mà còn phải giải quyết các loại án hành chính, hình sự mà theo Dự thảo Luật mới cũng sẽ tăng thẩm quyền cho TAND khu vực dẫn tới số lượng các loại án này sẽ tăng. Chính vì thế rất cần nhiều số lượng hơn nữa các Thẩm phán có dày dặn kinh nghiệm như Thẩm phán bậc 2 để có thể đảm bảo tiến độ, chất lượng giải quyết án nói chung tại TAND khu vực.

Từ những thách thức được dự báo ở trên, chúng tôi đề xuất các giải pháp như sau:

Thứ nhất, cần thiết đẩy nhanh hoàn thiện cơ sở vật chất để đảm bảo hoạt động của các TAND khu vực. Trước mắt, trong điều kiện chưa thể thực hiện được ngay công việc này do các điều kiện khách quan thì cần có phương án phối hợp hoạt động, tận dụng các cơ sở vật chất vốn có để thích ứng với thời gian đầu khi thực hiện mô hình TAND mới. Phương án này chủ yếu để khắc phục trong thời gian ngắn một phần nhằm giải quyết tình thế khó khăn và bên cạnh đó cũng để nhân dân thích ứng dần dần với sự thay đổi. Phương án này cũng được xem xét áp dụng đối với việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Công văn số 03/CV-BCĐ ngày 15/4/2025 của Ban chỉ đạo sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp về việc định hướng một số nhiệm vụ sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp; về tổ chức bộ máy, CBCCVC khi thực hiện sắp xếp[8]. Bên cạnh đó cũng cần tiếp tục đẩy mạnh công tác chuyển đổi số, xây dựng Tòa án điện tử. Việc đầu tư máy móc cho hoạt động tố tụng trực tuyến sẽ là một giải pháp ít áp lực hơn so với việc đầu tư xây dựng, mở rộng trụ sở, vừa đảm bảo tính hiệu quả lại tiết kiệm chi phí hơn cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, cũng cần khảo sát về nhu cầu công việc thực tế tại từng đơn vị để bố trí cơ sở vật chất một cách phù hợp, tránh lãng phí.

Thứ hai, cần đào tạo đội ngũ Thẩm phán chuyên phụ trách giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Bên cạnh đó, tổ chức thêm nhiều các đợt tập huấn cho Thẩm phán TAND bậc 1 về kinh nghiệm, kỹ năng giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Khuyến khích TAND cấp tỉnh đưa ra các giải pháp, sáng kiến xây dựng các bộ quy trình cụ thể của hoạt động tố tụng giải quyết các loại vụ việc này để Thẩm phán, cán bộ TAND khu vực nhanh chóng tiếp cận, áp dụng một cách có hiệu quả để đảm chất lượng, tiến độ giải quyết chung.

Thứ ba, cần tăng tỷ lệ Thẩm phán TAND bậc 2 tại TAND khu vực. Theo quy định hiện hành[9], tỷ lệ Thẩm phán TAND bậc 2 tại TAND khu vực là 30%. Tuy nhiên, với mục tiêu giải quyết công việc hiệu quả hơn nữa thì hoàn toàn hợp lý nếu điều chỉnh lại tỷ lệ Thẩm phán nhân dân bậc 2 tại TAND khu vực lên 40-45%. Nhất là với việc bỏ kỳ thì nâng bậc Thẩm phán thay vào đó là xét nâng bậc dựa trên các tiêu chí định lượng cụ thể cũng sẽ giúp việc tăng số lượng Thẩm phán bậc 2.

Kết luận

Như vậy, có thể thấy được những dấu hiệu tích cực trong mô hình tổ chức Tòa án trong giai đoạn mới. Điều này là hoàn toàn phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp toàn diện mà tập trung vào hệ thống TAND. TAND tối cao đã có sự chuẩn bị tương đối đầy đủ, nhiều mặt mà tập trung chủ yếu về con người cũng như tiếp tục xây dựng các quy định pháp luật để đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ đổi mới. Cụ thể hơn là trong giai đoạn cả hệ thống chính trị đang tập trung xây dựng, cụ thể hóa các chủ trương của về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị mà trong đó Tòa án có sự thay đổi bước ngoặt trong mô hình tổ chức.

 

ThS. ĐÀO CHÍNH HƯỚNG (Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương) - NCS.ThS. HỒ MINH THÀNH (Giảng viên Trường ĐH Luật, Đại học Huế)

Danh mục tài liệu tham khảo

1. TANDTC, Dự thảo 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. https://vbpq.toaan.gov.vn/webcenter/portal/htvb/chi-tiet-vbdt?dDocName=TAND358488.

2. Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTDS, Luật TTHC, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản, Luật hòa giải đối thoại tại Tòa án,

https://vbpq.toaan.gov.vn/webcenter/portal/htvb/chi-tiet-vbdt?dDocName=TAND358485.

3. Dự thảo Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân,

https://vbpq.toaan.gov.vn/webcenter/portal/htvb/chi-tiet-vbdt?dDocName=TAND358487.

4. PV, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu đóng góp ý kiến về tiêu chí tổ chức tòa án cấp sơ thẩm, https://tapchitoaan.vn/toa-an-nhan-dan-toi-cao-chi-dao-ve-tieu-chi-to-chuc-toa-an-cap-so-tham13003.html.

5. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

6. Hữu Hoè, Hoàn thiện pháp luật tương trợ tư pháp về dân sự theo hướng hiện đại, khả thi, https://tapchitaichinh.vn/hoan-thien-phap-luat-tuong-tro-tu-phap-ve-dan-su-theo-huong-hien-dai-kha-thi.html?source=cat-87.

7. Dự thảo 2 Luật Tương trợ tư pháp về dân sự, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Luat-Tuong-tro-tu-phap-dan-su-624015.aspx.

8. Nghị quyết số 67/2025/UBTVQH15 ngày 06/02/2025 của Ủy ban Thường vụ quốc hội: Quy định về bậc, điều kiện của từng bậc, việc nâng bậc và số lượng, cơ cấu tỷ lệ các bậc Thẩm phán Tòa án nhân dân.

9. Báo điện tử Hải Dương, Thiếu cơ sở vật chất phục vụ công tác xét xử, https://hdnd.haiduong.gov.vn/hoat-dong-giam-sat-dbqh/thieu-co-so-vat-chat-phuc-vu-cong-tac-xet-xu-n582.html.

10. Công văn số 03/CV-BCĐ ngày 15/4/2025 của Ban chỉ đạo sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp về việc định hướng một số nhiệm vụ sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp; về tổ chức bộ máy, CBCCVC khi thực hiện sắp xếp, https://xdcs.cdnchinhphu.vn/446259493575335936/2025/4/16/03-bcd-signed-17447721467321979132863.pdf.


2 Phạm vi nghiên cứu của bài viết nên không nhắc tới thẩm quyền giải quyết các vụ án hình sự, hành chính và phá sản, thay vào đó tập trung phân tích thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và các vụ việc có yếu tố nước ngoài là chủ đạo.

[1] PV, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu đóng góp ý kiến về tiêu chí tổ chức tòa án cấp sơ thẩm, https://tapchitoaan.vn/toa-an-nhan-dan-toi-cao-chi-dao-ve-tieu-chi-to-chuc-toa-an-cap-so-tham13003.html, truy cập ngày 20/5/2025.

[2] Điều 20 BLTTDS 2015.

[3] Hữu Hoè, Hoàn thiện pháp luật tương trợ tư pháp về dân sự theo hướng hiện đại, khả thi, https://tapchitaichinh.vn/hoan-thien-phap-luat-tuong-tro-tu-phap-ve-dan-su-theo-huong-hien-dai-kha-thi.html?source=cat-87, truy cập ngày 20/5/2025.

[4] Điều 10 Dự thảo 2 Luật tương trợ tư pháp về dân sự, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Luat-Tuong-tro-tu-phap-dan-su-624015.aspx, truy cập ngày 20/5/2025.

[5] Điểm d khoản 1 Điều 8 Nghị quyết số 67/2025/UBTVQH15 ngày 06/02/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về bậc, điều kiện của từng bậc, việc nâng bậc và số lượng, cơ cấu tỷ lệ các bậc Thẩm phán Tòa án nhân dân.

[6] Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về tổ chức phiên tòa trực tuyến.

[7] Báo điện tử Hải Dương, Thiếu cơ sở vật chất phục vụ công tác xét xử, https://hdnd.haiduong.gov.vn/hoat-dong-giam-sat-dbqh/thieu-co-so-vat-chat-phuc-vu-cong-tac-xet-xu-n582.html, truy cập ngày 20/5/2025.

[8] Công văn số 03/CV-BCĐ ngày 15/4/2025 của Ban chỉ đạo sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp về việc định hướng một số nhiệm vụ sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp; về tổ chức bộ máy, CBCCVC khi thực hiện sắp xếp, https://xdcs.cdnchinhphu.vn/446259493575335936/2025/4/16/03-bcd-signed-17447721467321979132863.pdf, truy cập ngày 20/5/2025.

[9] Điều 8 Nghị quyết số 67/2025/UBTVQH15 ngày 06/02/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về bậc, điều kiện của từng bậc, việc nâng bậc và số lượng, cơ cấu tỷ lệ các bậc Thẩm phán Tòa án nhân dân.

Ảnh minh hoạ - Nguồn: Internet.