Bảo đảm quyền công dân trong thủ tục giải quyết việc dân sự

Nhằm khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn, để phù hợp với Bộ luật và luật khác, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung trình tự thủ tục tố tụng chung cho giải quyết các việc dân sự và một số thủ tục riêng cho việc dân sự cụ thể mang tính đặc thù. Trong kỳ trước, bài viết đã giải quyết nội dung " Thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự, quyền bình đẳng giữa các đương sự", trong bài này, tác giả cung cấp nội dung "Tòa án thực hiện trách nhiệm bảo đảm quyền công dân trong thủ tục giải quyết việc dân sự" và "Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc bảo đảm quyền công dân trong thủ tục giải quyết việc dân sự".

Tiếp theo kỳ trước.
2.Tòa án thực hiện trách nhiệm bảo đảm quyền công dân trong thủ tục giải quyết việc dân sự

2.1. Quy định chung về giải quyết việc dân sự

– Thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu

Thủ tục nhận đơn yêu cầu như thủ tục nhận đơn khởi kiện, cụ thể: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán giải quyết đơn yêu cầu. Trường hợp đơn yêu cầu chưa ghi đầy đủ nội dung theo quy định thì Thẩm phán yêu cầu người yêu cầu sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Nếu người yêu cầu thực hiện đầy đủ yêu cầu sửa đổi, bổ sung thì Thẩm phán tiến hành thủ tục thụ lý việc dân sự. Nếu hết thời hạn quy định mà người yêu cầu không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu thì Thẩm phán trả lại đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ. Trường hợp xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo đã đủ điều kiện thụ lý thì Thẩm phán thực hiện như sau: Thông báo cho người yêu cầu về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí, trừ trường hợp người đó được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí; Tòa án thụ lý đơn yêu cầu khi người yêu cầu nộp cho Tòa án biên lai thu tiền lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự; trường hợp người yêu cầu được miễn hoặc không phải nộp lệ phí thì Thẩm phán thụ lý việc dân sự kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu[1]. Theo đó, BLTTDS năm 2015 đã quy định chi tiết và cụ thể thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu như thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện; tạo điều kiện cho người yêu cầu thuận lợi hơn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp; đồng thời, là cơ sở pháp lý cho Tòa án tiến hành giải quyết đơn yêu cầu đúng pháp luật.

Bên cạnh đó, Tòa án trả lại đơn yêu cầu trong những trường hợp: Người yêu cầu không có quyền yêu cầu hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; sự việc người yêu cầu yêu cầu đã được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết; việc dân sự không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; người yêu cầu không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu trong thời hạn quy định; người yêu cầu không nộp lệ phí trong thời hạn quy định, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp lệ phí hoặc chậm nộp vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan; người yêu cầu rút đơn yêu cầu. Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại việc trả lại đơn yêu cầu được thực hiện như giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện[2]. Có thể khẳng định: “Xuất phát từ quyền được bảo vệ tại Tòa án nhân dân, công dân có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân giải quyết việc dân sự. Trong trường hợp Tòa án nhân dân từ chối giải quyết, công dân có quyền biết lý do cũng như căn cứ mà Tòa án nhân dân không chấp nhận yêu cầu của đương sự. Thông qua khiếu nại này công dân bày tỏ quan điểm của mình về việc thực thi pháp luật của Tòa án, đề nghị chủ thể có thẩm quyền xem xét, giải quyết yêu cầu của công dân theo đơn khiếu nại”[3].

Chuẩn bị xét đơn yêu cầu

Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu nói chung là 01 tháng, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu. Tuy nhiên có một số việc dân sự do có tính đặc thù nên BLTTDS năm 2015 quy định thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu riêng nên thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu sẽ thực hiện theo quy định cụ thể: Chuẩn bị xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích: Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích, Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích. Thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích là 04 tháng, kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên. 4. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn thông báo quy định tại khoản 2 Điều này thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu[4]. Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án: Thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thực hiện theo quy định tại các Điều 363, 364 và 365 của Bộ luật này. Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu là 15 ngày, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu; hết thời hạn này, Tòa án phải ra quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu[5].

Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Thẩm phán được phân công thực hiện những công việc sau đây: Nếu xét thấy tài liệu, chứng cứ chưa đủ căn cứ để Tòa án giải quyết, thì Thẩm phán yêu cầu đương sự bổ sung tài liệu, chứng cứ trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Thẩm phán; trường hợp đương sự có yêu cầu hoặc khi xét thấy cần thiết thì Thẩm phán ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ; triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá tài sản. Nếu hết thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu mà chưa có kết quả giám định, định giá tài sản thì thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu được kéo dài nhưng không quá 1 tháng; Quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu và trả lại đơn yêu cầu, tài liệu, chứng cứ kèm theo nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu; Quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự. Tòa án phải gửi ngay quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự và hồ sơ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu. Viện kiểm sát phải nghiên cứu trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Tòa án để mở phiên họp giải quyết việc dân sự[6].

Từ các quy định chung về trình tự, thủ tục giải quyết việc dân sự nêu trên nhận thấy không có sự nhất quán trong quy định thời hạn tính bằng ngày làm việc và ngày trong tuần; cụ thể: Thời hạn Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán giải quyết đơn yêu cầu là 3 ngày làm việc; thời hạn Thông báo cho người yêu cầu về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự là 5 ngày làm việc; nhưng thời hạn Thẩm phán yêu cầu người yêu cầu sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 7 ngày; thời hạn Viện kiểm sát phải nghiên cứu hồ sơ là 7 ngày. Do đó, pháp luật cần có quy định thống nhất cách xác định ngày của từng thời hạn giải quyết việc dân sự. Chúng tôi cho rằng nên quy định thời hạn đối với từng thủ tục theo ngày làm viêc sẽ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự tốt hơn.

Thành phần giải quyết việc dân sự

Giống như quy định của BLTTDS năm 2004[7], thành phần phiên họp giải quyết việc dân sự chỉ do một Thẩm phán giải quyết; trừ các yêu cầu giải quyết việc dân sự có yếu tố nước ngoài do ba Thẩm phán giải quyết[8]; cụ thể: Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài. Yêu cầu xét tính hợp pháp của cuộc đình công. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định lao động của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định lao động của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam. Nếu các yêu cầu giải quyết việc dân sự có yếu tố nước ngoài do có tính chất phức tạp hơn nên pháp luật quy định phải có ba Thẩm phán giải quyết. Ngoài quy định một số việc dân sự có tính đặc thù thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu riêng; còn thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu nói chung là 01 tháng, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mà không có sự phân biệt việc yêu cầu phức tạp hay việc yêu cầu đơn giản. Do đó, pháp luật cần quy định các yêu cầu giải quyết việc dân sự có tính chất phức tạp như các yêu cầu có yếu tố nước ngoài phải có ba Thẩm phán giải quyết thì có thời hạn dài hơn hơn đối với các yêu cầu giải quyết việc dân sự thông thường; có như vậy Tòa án mới đảm bảo được đúng thời hạn theo luật định.

2.2.Trình tự, thủ tục giải quyết một số việc việc có tính chất đặc thù

Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu là 1 tháng, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu. Tòa án phải mở phiên họp để giải quyết việc dân sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp[9]. Quyết định giải quyết việc dân sự phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, người yêu cầu giải quyết việc dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết việc dân sự trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định[10]. Người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết việc dân sự có quyền kháng cáo quyết định giải quyết việc dân sự trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định. Trường hợp họ không có mặt tại phiên họp giải quyết việc dân sự thì thời hạn đó được tính từ ngày họ nhận được quyết định giải quyết việc dân sự hoặc kể từ ngày quyết định đó được thông báo, niêm yết[11]. Thời hạn chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị là 15 ngày, kể từ ngày Tòa án nhận kháng cáo, kháng nghị. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Thẩm phán phải mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự.[12].

Với trình tự, thủ tục giải quyết đơn giản, nhanh chóng đã tạo thuận lợi cho người dân có thể tiếp cận với Tòa án, trong cuộc sống hàng ngày phát sinh những tranh chấp mà có thể tự giải quyết được bằng con đường hòa giải, thỏa thuận mà không phải khởi kiện ra Tòa và để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp họ chỉ cần yêu cầu Tòa án công nhận cho mình một số quyền và nghĩa vụ về dân sự, HN&GĐ hoặc kinh doanh thương mại. Với các quy định trình tự, thủ tục đơn giản, nhanh chóng chế định giải quyết việc dân sự góp phần nâng cao hiệu suất công tác xét xử của Tòa án, kịp thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và Thẩm phán có thể tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong phạm vi được giao, làm tăng thêm tinh thần trách nhiệm, buộc họ phải thận trọng, cân nhắc khi thụ lý giải quyết việc dân sự mà vẫn bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết việc dân sự cho thấy số lượng các việc dân sự được Tòa án thụ lý, giải quyết trong tổng số vụ việc dân sự được Tòa án thụ lý, giải quyết chiếm một tỷ lệ nhỏ, chưa đáng kể. Một phần nguyên nhân của tình trạng này là các quy định của pháp luật về trình tự thủ tục giải quyết việc dân sự còn chưa rõ ràng, cụ thể, chưa thực sự là một thủ tục đơn giản, thiếu tính mềm dẻo dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau. Vì lẽ đó, thay vì yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự đối với một số trường hợp nhưng đương sự lại làm đơn khởi kiện giải quyết theo thủ tục giải quyết vụ án dân sự như các vụ việc về hôn nhân và gia đình, yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.

Ngoài việc bổ sung thủ tục yêu cầu tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (Chương XXIV), BLTTDS năm 2015 bổ sung thủ tục công nhận thuận tình ly hôn (Chương XXVIII). Theo đó, trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Thẩm phán phải tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, trước khi tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án; giải thích về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha, mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình, về trách nhiệm cấp dưỡng và các vấn đề khác liên quan đến hôn nhân và gia đình. Trường hợp sau khi hòa giải, vợ, chồng đoàn tụ thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu của họ.

Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành thì Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: Hai bên thực sự tự nguyện ly hôn; hai bên đã thỏa thuận được với nhau về việc chia hoặc không chia tài sản chung, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con; sự thỏa thuận phải bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, con. Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành và các đương sự không thỏa thuận được về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết. Tòa án không phải thông báo về việc thụ lý vụ án, không phải phân công lại Thẩm phán giải quyết vụ án. Việc giải quyết vụ án được thực hiện theo thủ tục chung[13].

Đây là một trong những điểm mới trong thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn. Theo quy định trước đây thì trong quá trình giải quyết loại việc này, nếu một hoặc các bên đương sự có thay đổi thỏa thuận (một phần hoặc toàn bộ) nhưng không thoả thuận được về vấn đề đã được thoả thuận trước đó và có tranh chấp, thì được coi như đương sự rút đơn yêu cầu và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự, đương sự nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết thì phải khởi kiện vụ án theo thủ tục chung (phải làm đơn, cung cấp tài liệu chứng cứ, tạm ứng án phí …)[14] là khởi kiện một vụ án mới. Còn theo quy định hiện hành thì cùng với việc đình chỉ công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì Tòa án thụ lý vụ án theo thủ tục chung mà không phải thông báo về việc thụ lý vụ án, không phải phân công lại Thẩm phán. Có nghĩa là: “Có thể xem đây là trường hợp chuyển từ việc sang vụ, tạo thuận lợi cho công dân không phải thực hiện lại thủ tục từ đầu, trong khi hồ sơ đã thu thập tài liệu, chứng cứ tương đối đầy đủ, tránh lãng phí cho công dân và cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là chế độ thống kê, báo cáo như thế nào?[15]. Do đó, cần quy định rõ hơn về cơ chế thực hiện việc đình chỉ công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì Tòa án thụ lý vụ án theo thủ tục chung, vẫn phải thông báo về việc thụ lý vụ án cho các bên đương sự vì đương sự trong việc dân sự và vụ án dân sự không đồng nhất với nhau; Tòa án chỉ không phải phân công lại Thẩm phán là tạo thuận lợi cho công dân không phải thực hiện lại thủ tục thụ lý vụ án.

Thủ tục công nhận hòa giải thành ngoài Tòa án (Chương XXXIII), để thể chế hóa tinh thần cải cách tư pháp về việc khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó. BLTTDS năm 2015 quy định cơ chế, phương thức để yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án nhằm giảm số lượng vụ tranh chấp phải giải quyết tại Tòa án và nhanh chóng hàn gắn mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân. Theo đó, kết quả hòa giải thành vụ việc ngoài Tòa án được Tòa án xem xét ra quyết định công nhận là kết quả hòa giải thành vụ việc xảy ra giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền có nhiệm vụ hòa giải đã hòa giải thành theo quy định của pháp luật về hòa giải như kết quả hòa giải theo quy định của Luật Hòa giải cơ sở, Luật Thương mại, Luật Đất đai, Bộ luật Lao động, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Việc xem xét công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án do một Thẩm phán giải quyết. Điều kiện để Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án là các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý; một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận; nội dung thỏa thuận hòa giải thành của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba. Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nhưng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Kết quả hòa giải ngoài Tòa án được Tòa án ra quyết định công nhận sẽ được cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự[16].

Hiện nay, việc hòa giải thành ở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, hoà giải cơ sở và tại các trung tâm hòa giải theo quy định của pháp luật do các bên thỏa thuận phương án giải quyết tranh chấp và tự nguyện thi hành; trong trường hợp các bên không thi hành, thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Thực tiễn cho thấy, nhiều trường hợp các đương sự đã thỏa thuận được với nhau nhưng sau đó một bên lại thay đổi không thực hiện nội dung đã hòa giải, vì vậy kết quả hòa giải không có giá trị để thi hành. Nhằm đảm bảo giá trị pháp lý của kết quả hòa giải ở cơ sở; từ đó hạn chế các tranh chấp yêu cầu Tòa án giải quyết; bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

Có thể thấy rằng, công nhận hòa giải ngoài Tòa án không khắc phục được tình trạng các đương sự đã thỏa thuận nhưng sau đó thay đổi, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên đương sự còn lại. Nếu công nhận được việc hòa giải ngoài Tòa án sẽ góp phần làm tăng giá trị pháp lý của việc hòa giải, khuyến kích việc giải quyết tranh chấp dân sự thông qua hòa giải, giảm bớt việc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Thực tiễn công tác hoà giải còn nhiều bất cập nên cần quy định chặt chẽ điều kiện và thủ tục để Tòa án công nhận kết quả hòa giải của Ủy ban nhân dân xã, của tổ chức hòa giải sẽ tránh cho việc ra quyết định công nhận hòa giải không đúng pháp luật. Do không thực hiện thỏa thuận hòa giải các bên tiếp tục khởi kiện ra Tòa án dẫn đến tốn kém thời gian và chi phí  cho việc giải quyết vụ án. Do đó, cần quy định chặt chẽ điều kiện và thủ tục để Tòa án công nhận kết quả hòa giải sẽ giúp Ủy ban nhân dân xã, trung tâm hòa giải, Hòa giải viên nâng cao chất lượng công tác hòa giải trong nhân dân.

3.Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc bảo đảm quyền công dân trong thủ tục giải quyết việc dân sự

3.1. Kiểm sát viên tham gia phiên họp

Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Để phù hợp với tính chất dân sự, BLTTDS năm 2015 cơ bản giữ nguyên những nội dung BLTTDS năm 2004, đồng thời đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung mới những trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên họp. Cụ thể như sau: Kiểm sát viên phải tham gia tất cả các phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm giải quyết việc dân sự. Phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự nếu Kiểm sát viên vắng mặt mà không có kháng nghị của Viện kiểm sát thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát thì hoãn phiên họp. Phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm giải quyết việc dân sự phải có mặt của Kiểm sát viên, nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì hoãn phiên họp[17].

Những quy định mới của  BLTTDS năm 2015 là Kiểm sát viên của Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp[18]. Như vậy, sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên họp là bắt buộc với tư cách người tiến hành tố tụng, đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp thực hiện việc kiểm sát tuân theo pháp luật trong giải quyết việc dân sự. Tuy nhiên, trường hợp Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên họp mà vắng mặt, thì Tòa án không hoãn phiên họp. Quy định này gây khó khăn trong công tác kiểm sát giải quyết các việc dân sự. Vì việc lên lịch giải quyết việc dân sự thuộc quyền chủ động của Thẩm phán và Tòa án, còn việc tham gia phiên họp là sự bị động của Kiểm sát viên như: Việc phân công Kiểm sát viên kiểm sát giải quyết việc dân sự và tham gia phiên họp được thực hiện khi Tòa án gửi thông báo thụ lý việc dân sự; khi quyết định đưa việc dân sự ra giải quyết thời gian nào là do Thẩm phán chủ động quyết định, nên thực tế xảy nhiều trường hợp một Kiểm sát viên có 2 hoặc nhiều vụ và việc cùng lên lịch xét xử và giải quyết cùng một thời điểm; hoặc đến ngày giải quyết việc dân sự Kiểm sát viên được phân công bị ốm nên không thể tham gia phiên họp. Do đó, nếu Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên họp mà vắng mặt mà Tòa án vẫn tiến hành phiên họp thì Viện kiểm sát không thực hiện được việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên họp, sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Bên cạnh đó, từ góc độ quyền công dân, Kiểm sát viên phải tham gia tất cả các phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm giải quyết việc dân sự không đảm bảo nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, tránh sự can thiệp quá sâu của Nhà nước trong việc giải quyết việc dân sự. Viện kiểm sát vẫn có thể thực hiện được quyền kiểm sát của mình thông qua kiểm tra hồ sơ việc dân sự cho nên Viện kiểm sát không thực sự cần thiết phải tham gia tất cả các phiên họp, mà chỉ cần tham gia phiên họp đối với những trường hợp có liên quan đến tài sản của nhà nước, đương sự là người chưa thành niên, người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; còn những trường hợp khác nên để cho đương sự tự quyết định sẽ đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả đối với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.

3.2. Phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên họp

Tại phiên họp, sau khi người tham gia tố tụng trình bày về những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết, lý do, mục đích và căn cứ của việc yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết việc dân sự[19]. Trường hợp chỉ có Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị và căn cứ của việc kháng nghị. Trường hợp vừa có kháng cáo, vừa có kháng nghị thì các đương sự trình bày về nội dung kháng cáo và các căn cứ của việc kháng cáo trước, sau đó Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị và căn cứ của việc kháng nghị. Trường hợp Viện kiểm sát không kháng nghị thì Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết kháng cáo trước khi Hội đồng phúc thẩm ra quyết định[20]. Như vậy, Kiểm sát viên không chỉ phát biểu về việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán như trước đây mà còn phát biểu ý kiến về việc giải quyết việc dân sự. Thực tiễn thi hành BLTTDS năm 2004 cho thấy quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa tạo điều kiện cho Viện kiểm sát thực hiện được đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Kiểm sát viên tham gia phiên họp và phát biểu về việc giải quyết vụ án là đại diện cho quyền lợi của xã hội, không phải là đại diện của các bên đương sự, chỉ đưa ra quan điểm về áp dụng pháp luật đối với Thẩm phán. Quy định này cũng nâng cao vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát và của Kiểm sát viên.

Ngoài ra, BLTTDS năm 2015 quy định ngay sau khi kết thúc phiên họp, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ việc dân sự. Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên họp không những phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ việc dân sự mà còn phải căn cứ vào diễn biến trực tiếp tại phiên họp. Nên bản phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên có thể được chỉnh sửa về nội dung và hình thức văn bản sau khi nắm bắt diễn biến trực tiếp tại phiên tòa. Mặt khác, bản phát biểu còn được đóng dấu của Viện kiểm sát. Vì vậy, theo chúng tôi nên để như quy định như trước đây là trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc phiên tòa, Viện kiểm sát phải gửi cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án[21].

KẾT LUẬN

Theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, Tòa án xét xử theo thủ tục thông thường và thủ tục rút gọn nên việc hoàn thiện chế định giải quyết việc dân sự là hết sức cần thiết. Đối với loại việc dân sự có bản chất là không có tranh chấp, do các bên thỏa thuận, chứng cứ rõ ràng và do một Thẩm phán giải quyết đã phần nào đảm bảo được quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự những năm gần đây. Việc thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ cho các Thẩm phán thông qua tổ chức tập huấn nâng cao nhận thức cho các Thẩm phán về các quy định của BLTTDS và hướng dẫn các quy định của BLTTDS về giải quyết việc dân sự sẽ đem lại hiệu quả tích cực cho việc giải quyết việc dân sự. Qua việc tập huấn, những vướng mắc, hạn chế trong thực tiễn áp dụng thủ tục giải quyết việc dân sự mà họ đã và đang vướng mắc sẽ được tháo gỡ cụ thể. Qua đó những vướng mắc, hạn chế được áp dụng vào công tác giải quyết các việc dân sự một cách nhanh chóng vừa bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật vừa kịp thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, tổ chức khi có yêu cầu tại Tòa án. Thực tế giải quyết việc dân sự tại Tòa án các cấp cho thấy, phần lớn các việc dân sự đã được Tòa án thụ lý giải quyết nhưng việc cung cấp chứng cứ từ phía các đương sự để chứng minh cho yêu cầu của mình là đúng pháp luật còn rất hạn chế trong đó nguyên nhân chủ yếu là do khả năng nhận thức về pháp luật chưa cao. Do đó, việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức pháp luật cho công dân là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác giải quyết tại Tòa án. Chỉ khi công dân nắm chắc pháp luật thì công tác giải quyết của Tòa án sẽ hiệu quả hơn, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

 

[1] Điều 363 BLTTDS năm 2015.

[2] Điều 364 BLTTDS năm 2015.

[3] Nguyễn Văn Tiến (2016), “Bình luận phần thủ tục giải quyết việc dân sự trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015”, Bình luận những điểm mới trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Tr. 255.

[4] Điều 388 BLTTDS năm 2015.

[5] Điều 419 BLTTDS năm 2015.

[6] Điều 366 BLTTDS năm 2015.

[7] Điều 54 BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011.

[8] Điều 67 BLTTDS năm 2015.

[9] Khoản 1, 4 Điều 366 BLTTDS năm 2015.

[10] Khoản 2 Điều 370 BLTTDS năm 2015.

[11] Khoản 1 Điều 372 BLTTDS năm 2015.

[12] Khoản 1, 4 Điều 373 BLTTDS năm 2015.

[13] Điều 397 BLTTDS năm 2015.

[14] Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004.

[15] Trần Văn Trường (2016), “Điểm mới trong TTGQ yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn”, http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1996, truy cập ngày 10/12/2016.

 

[16] Từ Điều 416 đến Điều 419 BLTTDS năm 2015.

[17] Khoản 1 Điều 367, Khoản 1 Điều 374, khoản 1 Điều 338 BLTTDS năm 2015.

[18] Khoản 1 Điều 367 BLTTDS năm 2015.

[19] Điểm g khoản 1 Điều 369 BLTTDS năm 2015.

[20] Điểm c khoản 1 Điều 375 BLTTDS năm 2015.

[21] Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/10/2013 (có hiệu lực ngày 02/12/2013).

TS NGUYỄN HẢI AN ( TS. Trưởng phòng Giám đốc, kiểm tra, TAND cấp cao tại Hà Nội)