
Bất cập, vướng mắc trong thủ tục thi hành án dân sự có cưỡng chế tài sản của người phải thi hành án và đề xuất, kiến nghị
Quá trình thi hành án, cơ quan thi hành án tổ chức việc cưỡng chế tài sản của người phải thi hành án để thi hành phán quyết của Tòa án; tuy nhiên, không phải lúc nào quá trình này cũng được thực hiện một cách nhanh chóng, suôn sẻ.
1. Đặt vấn đề
Quá trình thi hành án, cơ quan thi hành án tổ chức việc cưỡng chế tài sản của người phải thi hành án để thi hành phán quyết của Tòa án; tuy nhiên, không phải lúc nào quá trình này cũng được thực hiện một cách nhanh chóng, suôn sẻ. Có một thực tế đang diễn ra rất phổ biến đó là trong suốt quá trình tố tụng diễn ra trước đó, không có bất cứ tranh chấp nào liên quan đến tài sản của người phải thi hành án, thậm chí ngay trong chính vụ án có đối tượng tranh chấp là tài sản của một trong hai bên có nghĩa vụ phải thi hành án bị cưỡng chế, nhưng sau khi cơ quan thi hành án tiến hành cưỡng chế, thì việc xuất hiện người tranh chấp đối với tài sản bị cưỡng chế diễn ra rất thường xuyên, có những người tranh chấp thực sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình liên quan đến tài sản bị cưỡng chế, nhưng phần nhiều vẫn là các tranh chấp nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ thi hành án hoặc kéo dài thời gian thi hành án, có những vụ việc thậm chí Tòa án vừa giải quyết, xác định việc tranh chấp là không có cơ sở, thì khi tiếp tục thi hành án lại xuất hiện thêm người tranh chấp mới với nội dung và quan hệ tranh chấp khác. Đây là, thực trạng rất phổ biến của quá trình thi hành án hiện nay, đâu là nguyên nhân và giải pháp cho tình trạng nêu trên?
2. Nguyên nhân
Khoản 1 Điều 75 của Luật thi hành án dân sự (THADS) quy định “Trường hợp tài sản của người phải thi hành án bị cưỡng chế để thi hành án mà có người khác tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có tranh chấp về quyền của họ được khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà đương sự, người có tranh chấp khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì việc xử lý tài sản được thực hiện theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền”
Khoản 12 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Quy định tại Điều 75 của Luật Thi hành án dân sự và khoản 12 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự nêu trên là cần thiết để bảo vệ người thứ ba thiện chí, người bị ảnh hưởng bởi việc cưỡng chế của cơ quan thi hành án, nhưng đồng thời tạo ra độ mở tố tụng mà cơ quan thi hành án dân sự buộc phải tôn trọng khi xử lý tài sản đã kê biên và tạo nên kẽ hở pháp luật để người phải thi hành án thiếu thiện chí lợi dụng kéo dài thời gian thi hành án, gây khó khăn, cản trở cho quá trình thi hành án cũng như gây tâm lý bức xúc cho người được thi hành án.
Điều 75 Luật THADS dường như được thiết kế để khóa “khóa sổ tranh chấp” đối với tài sản bị cưỡng chế để thi hành án trrong thời hạn đã được xác định; khi có người tranh chấp tài sản kê biên, Chấp hành viên phải thông báo quyền khởi kiện/quyền đề nghị; nếu trong 30 ngày, kể từ ngày thông báo hợp lệ mà không khởi kiện/không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thì Chấp hành viên mới tiếp tục xử lý; nếu họ khởi kiện đúng hạn, việc xử lý tài sản phải đợi kết quả giải quyết của Tòa/cơ quan có thẩm quyền; tuy nhiên, dù “thời hạn 30 ngày” nêu tại Điều luật là một là “giới hạn thủ tục” rất quan trọng, nhưng thực tế thường bị lặp lại vì có thể ngay lập tức xuất hiện người tranh chấp khi tranh chấp trước vừa được giải quyết xong, tạo thành chuỗi trì hoãn nối tiếp, cản trở và kéo dài thời gian thi hành án, không phát huy được hiệu quả của điều luật trong việc xác định và hạn chế tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án.
Đồng thời, Điều 75 của Luật thi hành án dân sự chỉ nêu “… tài sản của người phải thi hành án bị cưỡng chế để thi hành án mà có người khác tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có tranh chấp về quyền của họ được khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết, trong thời hạn 30 ngày….”, điều luật chỉ giới hạn phạm vi là “tài sản của người phải thi hành án bị cưỡng chế” để được áp dụng quy định về thông báo quyền khởi kiện, mà không giới hạn “thời hạn” được đưa ra quyền tranh chấp đó, như vậy, có thể hiểu, bất cứ khi nào có tranh chấp, Chấp hành viên đều phải thực hiện việc thông báo cho người tranh chấp, miễn là tranh chấp phát sinh sau thời điểm cưỡng chế.
Như vậy, chính bản thân quy phạm của Điều 75 của Luật thi hành án dân sự cũng không tự hạn chế về thời hạn mà các chủ thể có liên quan được quyền đưa ra tranh chấp và yêu cầu giải quyết;
Trong khi quy định tại khoản 12 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự là một quy định chung và có phạm vi rất rộng, tất cả các tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đều được xếp vào khoản 12 nêu trên. Các tranh chấp điển hình trong phạm vi của điều luật này có thể bao gồm:
- Tranh chấp quyền sở hữu/sử dụng về tài sản.
- Tranh chấp về các giao dịch liên quan đến tài sản như: Thừa kế, chia tài sản chung, tài sản của hộ gia đình; giao dịch về chuyển quyền trước/sau khi có bản án/quyết định có hiệu lực, góp vốn bằng tài sản...
- Khiếu kiện hành chính về Giấy chứng nhận/biến động vụ án hành chính có thể dẫn tới áp dụng biện pháp bảo đảm tình trạng tài sản, làm đình trệ bán đấu giá dù tranh chấp dân sự đã được giải quyết một phần.
- Tài sản gắn liền của người thứ ba: Nhà xưởng, công trình trên đất; phần sở hữu riêng trong khối tài sản bị kê biên, yêu cầu xác định phần tài sản… thường khiến thời gian thi hành án tiếp tục bị kéo dài bởi các thủ tục về định giá, đấu giá phải làm lại…
Việc không “khóa sổ tranh chấp” đối với tài sản bị cưỡng chế để thi hành án tại Điều 75 của Luật thi hành án dân sự cũng bắt nguồn từ chính nội hàm về tranh chấp quá rộng của khoản 12 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự nêu trên.
Hậu quả là vòng lặp “cưỡng chế - xuất hiện người có tranh chấp - thông báo quyền khởi kiện - chờ giải quyết tranh chấp - hoãn thi hành án” cứ lặp đi lặp lại khi xử lý tài sản thi hành án, làm thời gian xử lý kéo dài qua nhiều chu kỳ, phát sinh thêm chi phí định giá đấu giá lại, giá trị tài sản hao mòn và ngày càng bào mòn niềm tin của người được thi hành án khi mà quyền lợi hợp pháp của họ đã được nhiều cơ quan xác nhận.
3. Đề xuất giải pháp
Để hạn chế các tình trạng xuất hiện “người có tranh chấp” đối với tài sản bị cưỡng chế để thi hành án như trên đây, người viết đề xuất một giải pháp đó là áp dụng các quy định tương tự của pháp luật về công chứng đối với trường hợp công chứng văn bản khai nhận và phân chia di sản quy định tại Điều 57, 58 của Luật Công chứng năm 2014 được hướng dẫn tại khoản 1, khoản 2 Điều 18 Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật công chứng năm 2014.
Điều 18 của Nghị định số 29/2015/NĐ-CP quy định “Việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản phải được niêm yết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày niêm yết…”.
Áp dụng tương tự quy định nêu trên, thì khi cưỡng chế tài sản để thi hành án, cơ quan thi hành án phải thực hiện niêm yết việc cưỡng chế trong thời hạn nhất định (có thể là 30 ngày như quy định về thông báo quyền khởi kiện của người có tranh chấp theo quy định tại Điều 75 của Luật Thi hành án dânsự) tại trụ sở của Ủy ban nhân cấp xã nơi thường trú hoặc nơi tạm trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người phải thi hành án; tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản và tại chính nơi có tài sản bị cưỡng chế.
Nội dung niêm yết bao gồm các thông tin cần thiết như: Họ tên người phải thi hành án, người được thi hành án; danh mục tài sản bị cưỡng chế; thời gian, địa điểm tiến hành việc cưỡng chế; bản niêm yết còn phải ghi rõ nếu có tranh chấp đối với tài sản bị cưỡng chế thi hành án đó, thì người có tranh chấp cần thực hiện các thủ tục gì, liên hệ với cơ quan thi hành án nào và quan trọng nhất là hậu quả pháp lý khi hết thời hạn niêm yết mà cơ quan thực hiện việc cưỡng chế không nhận được sự thông báo về việc có tranh chấp.
Giải pháp “niêm yết cưỡng chế trước khi xử lý tài sản” biến nghĩa vụ thông báo rời rạc cho từng người tranh chấp của Chấp hành viên khi có người tranh chấp trở thành thủ tục công khai bắt buộc. Kết hợp với quy định tại Điều 75 Luật thi hành án dân sự về thời hạn 30 ngày, sẽ là giải pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng xuất hiện thêm “người có tranh chấp” đối với tài sản bị cưỡng chế thi hành án; bởi lẽ, các thông báo có tranh chấp đối với tài sản chỉ được quyền đưa ra và được chấp nhận để giải quyết trong thời gian đã bị giới hạn (như đề xuất của tác giả là 30 ngày), hết thời hạn này, các tranh chấp nếu có sẽ phải được khởi kiện bằng một vụ án khác và trách nhiệm dân sự phải chuyển giao về cho người phải thi hành án.
Vậy tại sao cần niêm yết như vậy?
Giống như thủ tục công chứng, văn phòng công chứng không thể biết được người để lại di sản có bao nhiêu người thừa kế, bao nhiêu tài sản và có bao nhiêu người tranh chấp đối với di sản, nghĩa vụ của người để lại di sản, thì cơ quan thi hành án cũng không thể xác định được có bao nhiêu người có tranh chấp đối với tài sản bị cưỡng chế thi hành án, không thể cứ để cái vòng “cưỡng chế - xuất hiện người có tranh chấp - thông báo quyền khởi kiện - chờ giải quyết tranh chấp - hoãn thi hành án” cứ lặp đi lặp lại khi xử lý tài sản thi hành án, do đó việc niêm yết chính là thủ tục thông báo một cách rộng rãi và trực tiếp nhất để “khóa sổ tranh chấp” đối với tài sản bị cưỡng chế để thi hành án, đảm bảo việc xử lý tài sản của người phải thi hành án thực sự trở thành công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền lợi chính đáng của người được thi hành án./.
Ảnh minh họa, nguồn Internet.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Cấn Thành Đ, Nguyễn Đức V, Nguyễn Đức A và Nguyễn Gia B có phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 không?
-
Bắt khẩn cấp “ông bầu” Cao Tiến Đoan
-
TAND Khu vực 5 - TP Đà Nẵng: Khẳng định bản lĩnh, vững bước cùng truyền thống 80 năm TAND
-
Lời cảm ơn của Ban Tổ chức concert “Việt Nam trong tôi”
-
Trao đổi bài viết “Chiếc ghe máy đánh bắt cá có được xác định là tài sản mà Phạm Hữu V đã trộm cắp của ông Nguyễn Văn C không?”
Bình luận