Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý theo Điều 256 BLHS

Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý là cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý.

Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý là cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý; Điều 198 Bộ luật hình sự năm 1999 và Điều 256 Bộ luật hình sự năm 2015 cùng quy định về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý”, nội dụng hai điều luật này không có gì thay đổi nhưng những văn bản hướng dẫn thi hành và áp dụng trong thực tiễn vẫn còn các cách hiểu khác nhau, cụ thể qua ví dụ sau:

Ví dụ:  Ngày 20/02/2019 đối tượng Nguyễn Văn A, sinh năm 1988 đang sử dụng ma tuý tại nhà mình (nhà của A do A quản lý) thì có 07 bạn nghiện đến chơi, thấy A có ma tuý và các dụng cụ sử dụng ma tuý ở đó nên 07 đối tượng này cùng vào sử dụng với A, A đồng ý cho tất cả cùng sử dụng ma tuý. Sau khi sử dụng ma tuý xong thì các đối tượng này bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ các dụng cụ sử dụng ma tuý và các mảnh giấy bạc (theo giám định là có bám dính ma tuý MDMA – không xác định được khối lượng vì còn quá ít).

Ta thấy Nguyễn Văn A mua ma tuý về chỉ để sử dụng và không có mục đích khác, lượng ma tuý thu giữ không đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, do đó trong trường hợp này chỉ xem xét đến việc hành vi nêu trên của A có phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” theo Điều 256 Bộ luật hình sự năm 2015 hay không?

 QUAN ĐIỂM THỨ NHẤT

Hành vi nêu trên của A không phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” vì theo Điều 256 Bộ luật hình sự năm 2015 – Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy quy định: 1. Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”..

Đối chiếu với Điều 256 ta thấy ngôi nhà là của A, do A quản lý, A biết 07 đối tượng là bạn nghiện của mình bị nghiện ma tuý nhưng A vẫn đồng ý (ý thức chủ quan) để họ trực tiếp sử dụng trái phép chất ma túy nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ về sử dụng chất ma túy.  Hành vi này của A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” theo Điều 256 Bộ luật hình sự năm 2015.

Nhưng theo hướng dẫn tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999 (sau đây viết gọn là Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT), thì: b) Người nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác cùng sử dụng trái phép chất ma túy tại địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy….

Tuy nhiên tại Điều 3 thông tư liên tịch 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày ngày 14 tháng 11 năm 2015 đã bãi bỏ điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT.

“Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30 tháng 12 năm 2015. Bãi bỏ các hướng dẫn tại điểm đ tiết 3.7 mục 3 Phần II; điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II; mục 8 Phần II của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT.”

Theo quy định của điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT thì hành vi của A không phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” vì A là người nghiện ma tuý và cùng cho người khác sử dụng ma tuý tại nhà mình nên không phạm tội này. Tuy thông tư liên tịch 08/2015/TTLT đã bãi bỏ hướng dẫn tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT nhưng vẫn chưa có hướng dẫn nào thay thế hướng dẫn này nên theo nguyên tắc có lợi thì hành vi của A không phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý”.

QUAN ĐIỂM THỨ HAI (cũng là quan điểm của tác giả)

Hành vi nêu trên của A đã phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” theo Điều 256 Bộ luật hình sự năm 2015.

Theo phân tích của quan điểm thứ nhất ta thấy về chủ thể, khách thể, mặt khách quan, chủ quan của A thì đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” theo Điều 256 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuy theo hướng dẫn tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT thì hành vi của A không phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” vì A nghiện ma tuý và cùng cho người khác sử dụng tại nhà mình.

Trong thực tiễn xử lý các tội về ma tuý, đặc biệt là tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma tuý thì quy định tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT là một bất cập; quy định như vậy rất khó có thể xử lý hình sự các đối tượng tổ chức, chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy vì hầu hết trong số này là người nghiện. Sau khi bị bắt lại được thả khiến các cá nhân vi phạm coi thường pháp luật, dễ bề tái phạm. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gia tăng người nghiện ma túy tổng hợp và xuất hiện ngày càng nhiều các trường hợp “ngáo đá”.

Từ thực tiễn trên nên tại Điều 3 thông tư liên tịch 08/2015/TTLT đã bãi bỏ điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT. Do đó trong trường hợp của A ta chỉ cần đối chiếu với hành vi của A với Điều 256 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì đã cấu thành tội phạm, không có văn bản nào hay hướng dẫn nào loại trừ trách nhiệm hình sự của A (tính tới thời điểm tháng 3/2019) do đó hành vi nêu trên của A đã phạm vào tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Điều 256. Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy

  1. Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
  3. a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
  4. b) Phạm tội 02 lần trở lên;
  5. c) Đối với người dưới 16 tuổi;
  6. d) Đối với 02 người trở lên;

đ) Tái phạm nguy hiểm.

  1. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Trên đây là một vài ý kiến về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý, rất mong được trao đổi cùng đồng nghiệp và bạn đọc.

PHẠM THÀNH TRUNG ( TAND huyện Lý Nhân, Hà Nam)