Chức năng của Tòa án và một số nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự

Hiến pháp năm 2013 quy định: Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

1. Chức năng của Tòa án

Ra đời chính thức vào ngày 13/9/1945, hệ thống Toà án của nước ta đã lần lượt trải qua những thay đổi về tổ chức và hoạt động tương ứng với quy định của Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh số 33c/SL ngày 13/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời thành lập các Tòa án quân sự trong phạm vi cả nước, Sắc lệnh số 13-SL ngày 24 tháng Giêng năm 1946 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960; Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981; Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và các Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992, năm 2002; Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Có thể thấy lịch sử và sự biến động của hệ thống Tòa án nước ta gắn chặt với sự thay đổi của Hiến pháp mà nội hàm là sự điều chỉnh cơ cấu, tổ chức và bổ sung các nguyên tắc cơ bản, tiến bộ, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, định hướng, xu thế phát triển của Dân tộc, Nhà nước.

Những thay đổi này mang lại những kết quả tích cực, nổi bật về tổ chức và hoạt động, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn và nhiệm vụ chính trị đặt ra trong từng giai đoạn bảo vệ và xây dựng đất nước từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay. Trong giai đoạn hiện nay và các năm tiếp theo, với định hướng cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đã được Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương chỉ ra, xuất phát từ “yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong việc tổ chức và thực hiện quyền tư pháp, Toà án là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người ..., đòi hỏi ngành Toà án phải được cải cách mạnh mẽ”(1).

Hiến pháp 2013 tiếp tục ghi nhận Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Tuy vậy trong nghiên cứu lập pháp và hoạt động áp dụng vẫn còn một số điểm chưa đạt được sự thống nhất, dẫn tới cả trong khoa học pháp lý và thực tế tố tụng còn tồn tại những quan điểm, cách thức tiến hành khác nhau, chưa đảm bảo thực hiện đúng chức năng của Tòa án đã được Hiến định. Điều này có thể lý giải bởi hai nguyên nhân cơ bản: Ở góc độ luật thực định, BLTTHS và các văn bản hướng dẫn hiện hành vẫn còn tồn tại những bất hợp lý trong phân định chức năng của các chủ thể tiến hành tố tụng, điển hình trong đó nhiều qui định buộc Tòa án phải chịu trách nhiệm chứng minh tội phạm và thực hiện những công việc của cơ quan công tố như thu thập chứng cứ, khởi tố vụ án,…; hoặc qui định chưa rõ ràng hoặc qui định chưa đẩy đủ các quyền hạn để Tòa án có thể thực hiện được đúng và đầy đủ nhất chức năng “thực hiện quyền tư pháp”. Ở góc độ các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự trên thực tiễn, năng lực, trách nhiệm chưa cao của một bộ phận cán bộ thực hiện công tác tố tụng cùng với cơ chế, phương thức giải quyết án tại một số cơ quan chưa thực sự khoa học và đúng qui trình cũng là nguyên nhân làm nảy sinh các hạn chế, nhầm lẫn trong thực hiện chức năng của Tòa án khi giải quyết vụ án hình sự.

Theo lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, chức năng của Nhà nước “là những phương diện hoạt động cơ bản, quan trọng nhất của Nhà nước, phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chức năng của Nhà nước được xác định từ bản chất, vai trò của Nhà nước trong đời sống xã hội và ngược lại, các chức năng Nhà nước lại là sự biểu hiện cụ thể của bản chất và vai trò của Nhà nước”(2). Tòa án do vậy “lẽ tự nhiên” có chức năng được qui định từ bản chất, vai trò của cơ quan này trong cơ cấu tổ chức của bộ máy Nhà nước.

Về bản chất, và quay trở lại lịch sử tư pháp: Tòa án là cơ quan được hình thành và tồn tại do nhu cầu giải quyết xung đột giữa các thành viên trong xã hội. Các xung đột này được điều chỉnh ở nhiều mức độ khác nhau, từ cá nhân tự hòa giải đến việc cộng đồng can thiệp, và ở mức độ pháp lý cao nhất là đưa vào tố tụng với phán quyết có tính quyền lực Nhà nước của Tòa án. Đối với quy trình tố tụng hình sự, từ “lời buộc tội” của các cơ quan tố tụng về việc cá nhân, pháp nhân có hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể, cá nhân khác, Tòa án bằng hoạt động xét xử, xác định sự thật và đưa ra phán quyết để thi hành công lý, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ các chuẩn mực xã hội đã được Nhà nước thể chế bằng pháp luật.

Từ đó, theo chúng tôi việc “thực hiện quyền tư pháp” của Tòa án trong tố tụng hình sự, hiểu ở một phạm vi hẹp được thể hiện:

Thứ nhất, trong một quy trình tố tụng cơ bản và đầy đủ, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền đưa ra các quyết định giải quyết vụ án. Sự tham gia của các chủ thể ở các giai đoạn trước (hoạt động điều tra, truy tố, thu thập chứng cứ) hay ngay tại giai đoạn xét xử (hoạt động tranh tụng: buộc tội, bào chữa, đưa ra các yêu cầu, đề nghị....) đều nhằm phục vụ cho hoạt động đánh giá và đưa ra quyết định của Tòa án. Kết quả hướng đến của quá trình tố tụng chính là việc Tòa án xác định được sự thật, bản chất của vụ việc để từ đó đưa ra quyết định mang tính quyền lực Nhà nước thể hiện sự đánh giá pháp lý về vụ việc và xác định trách nhiệm của các chủ thể liên quan.

Thứ hai, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước đưa ra các quyết định về sinh mạng, tự do của cá nhân, công dân, sự tồn tại, các chế tài hình sự đối với pháp nhân: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Đồng thời, Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng hình phạt - chế tài nghiêm khắc nhất của pháp luật với nội dung từ cảnh cáo, hạn chế, tước bỏ một phần các quyền công dân đến loại trừ hẳn người phạm tội ra khỏi xã hội. “Bản án nghiêm minh, đúng pháp luật có hiệu lực của Toà án được thi hành trên thực tế là sự thể hiện đầy đủ sức mạnh của quyền tư pháp trong việc xử lý, phòng ngừa các vi phạm pháp luật, tranh chấp pháp lý, khôi phục các giá trị pháp luật, các quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại”.(3)

2. Một số nguyên tắc cơ bản liên quan đến việc thực hiện chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự

* Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án

Đây là nguyên tắc căn bản của tố tụng hình sự nói chung và trong thực hiện chức năng của Tòa án nói riêng. Tội phạm hoặc hành vi không phải tội phạm đã xảy ra, tồn tại trong thực tế, là hiện thực khách quan. Các cơ quan tố tụng và Tòa án khi giải quyết vụ án về bản chất là việc xác định sự thật, tái hiện lại chân thực, đầy đủ và toàn diện nhất sự kiện, hành vi, “chân dung” người thực hiện, để từ đó áp dụng đầy đủ, chính xác các quy định pháp luật điều chỉnh tương thích, đưa ra quyết định xử lý đúng luật, phù hợp với lẽ phải, công bằng, răn đe đồng thời giáo dục, phòng ngừa vi phạm, tội phạm tái hiện. Sự kiện tội phạm là hiện tượng khách quan với các tình tiết, chi tiết đa dạng và không lặp lại hoàn toàn trong bất kỳ một sự kiện phạm tội nào trước hoặc sau đó. Vì vậy, nhiệm vụ của Hội đồng xét xử là phải làm rõ - tái hiện nó với đầy đủ nhất các tình tiết có ý nghĩa buộc và gỡ tội, các tình tiết phản ánh sự tăng nặng hay giảm nhẹ tính nguy hiểm của hành vi, các tình tiết phản ánh nhân thân của người phạm tội,… mới có thể giải quyết được đúng đắn, phù hợp và triệt để vụ án, xác định đúng mức trách nhiệm hình sự cũng như đưa ra hình phạt đảm bảo hiệu quả cả về tính răn đe và phòng ngừa.

Với Tòa án, sự thật khách quan không được đồng nhất với sự việc phạm tội và hành vi phạm tội: Có thể là sự kiện phạm tội, có thể không phải; có thể có hành vi phạm tội của bị cáo, cũng có thể có hành vi phạm tội nhưng không phải do bị can, bị cáo thực hiện. Vì vậy trách nhiệm xác định sự thật khách quan của Tòa án không đồng nghĩa với trách nhiệm chứng minh tội phạm. Khác với cơ quan công tố, Tòa án không phải chủ thể được giao chức năng buộc tội, và vì đó không có trách nhiệm chứng minh sự cáo buộc. Vì vậy, mọi hành vi tố tụng của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hay tại phiên tòa nếu nhằm tới mục đích buộc tội thì về nguyên tắc là “sự nhầm lẫn” sang chức năng công tố, thể hiện sự định kiến của “trọng tài”, tạo ra sự bất bình đẳng, khó tạo được sự khách quan, công bằng và thực hiện chưa đúng chức năng của Tòa án.

Để đảm bảo thực hiện đúng chức năng, các hoạt động, quyết định tố tụng của Tòa án từ quá trình thụ lý, chuẩn bị như nghiên cứu, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định thành phần triệu tập, đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội đến quá trình xét hỏi, điều khiển xét hỏi hay điều khiển tranh luận trong tranh tụng tại phiên tòa đều phải hướng tới mục đích là xác định sự thật khách quan, làm cơ sở để đưa ra phán quyết đúng pháp luật, tương xứng và công bằng. Theo nguyên tắc đó, Tòa án chỉ được phép tiến hành các hành vi tố tụng thuộc về chức năng của mình. Việc Tòa án xét xử vụ án từ những chứng cứ tự mình thu thập, hoặc xét xử về hành vi do chính Tòa án tự khởi tố là khó đảm bảo tính khách quan. Nói cách khác Tòa án chỉ nên được quy định những quyền hạn, nhiệm vụ về “lắng nghe”, làm rõ, xác định sự thật khách quan và chứng minh tính đúng đắn của quyết định, phán quyết do chính mình ban hành. Quy định như vậy cũng sẽ đồng thời là minh chứng cho tính đúng đắn và công bằng của pháp luật.

* Nguyên tắc suy đoán vô tội

BLTTHS quy định: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Bị cáo không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.

Theo đó, người bị buộc tội, bị can, bị cáo đối với Tòa án, Hội đồng xét xử tại giai đoạn xét xử phải không được nhìn nhận là “người có tội”, mà là các chủ thể đang chịu sự cáo buộc. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan - chủ thể đưa ra cáo buộc, điều này qui định các trách nhiệm cho cơ quan tiến hành tố tụng:

Cơ quan công tố đưa ra cáo buộc và có trách nhiệm chứng minh cho cáo buộc đó, đóng vai trò tích cực trong việc làm rõ các chứng cứ, đối đáp luận điểm bào chữa của bị cáo, người bào chữa mà không được quyền giữ im lặng. Tòa án, Hội đồng xét xử trước khi tuyên án không thực hiện các hành vi tố tụng về chứng minh tội phạm mà phải làm rõ, đầy đủ và xem xét công tâm các chứng cứ, luận điểm, quan điểm áp dụng pháp luật của bên buộc tội, gỡ tội, ý kiến của những chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan để đưa ra quyết định, phán quyết. Nếu Tòa án, Hội đồng xét xử tham gia vào quá trình chứng minh tội phạm thì đây không đơn thuần là sự lấn sân sang chức năng công tố mà còn thể hiện sự vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội, làm ảnh hưởng tới tính khách quan của phán quyết.

Đồng thời, để người bị buộc tội, bị can, bị cáo được suy đoán vô tội thì các cơ quan tố tụng phải đảm bảo đúng các thời hạn điều tra, truy tố, xét xử. Người bị buộc tội có quyền không bị chậm trễ đưa ra xét xử. Ở nghĩa hẹp điều này nhằm hướng tới mục đích để bị can, bị cáo nhanh chóng được có đầy đủ cơ hội bào chữa hoặc sớm được đưa ra khỏi vòng tố tụng, chấm dứt các biện pháp ngăn chặn, khôi phục các quyền cơ bản của công dân khi được tuyên vô tội; ở nghĩa rộng hơn, “công lý chậm trễ” còn làm mất đi theo tùy mức độ của vụ việc ít hoặc nhiều giá trị thực sự của công lý. HĐXX là chủ thể đưa ra phán quyết về việc bị cáo có hay không có tội, xác định TNHS và quyết định hình phạt. Vì vậy bị cáo có quyền được sớm nhất chứng minh sự vô tội hoặc chứng minh tính nguy hiểm giảm nhẹ của hành vi đã thực hiện tại phiên tòa - sự kiện pháp lý tiêu biểu, quan trọng và đầy đủ nhất của tranh tụng công khai, nơi đưa ra quyết định về vụ án.

Các biện pháp ngăn chặn về bản chất là sự hạn chế các điều kiện của người bị tình nghi nhằm ngăn chặn tội phạm tiếp diễn, đảm bảo các điều kiện cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong các trường hợp cần thiết bằng cách hạn chế các quyền cơ bản của công dân hoặc hạn chế, ràng buộc họ bằng các nghĩa vụ, cam kết với chính quyền. Do đó, việc nhanh chóng được đưa ra xét xử cũng là quyền của bị can, bị cáo để họ cơ hội được sớm dỡ bỏ các hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cá biệt trong một số các trường hợp khác là sự phù hợp với nguyện vọng sớm được xét xử và chấp hành án của người phạm tội.

Cũng theo nguyên tắc này, mọi nghi ngờ về pháp luật và chứng cứ phải được HĐXX giải thích theo hướng có lợi cho bị cáo. Và vì vậy khi Tòa án tự mình thu thập chứng cứ hoặc Tòa án tự mình khởi tố một hành vi, con người cụ thể thì rất khó đảm bảo tính khách quan và diễn giải các nghi ngờ theo hướng có lợi cho người bị buộc tội của HĐXX.

* Nguyên tắc độc lập của Tòa án

Đây là nguyên tắc căn bản, được thừa nhận trong lịch sử tư pháp và cũng là yêu cầu tiên quyết của nền tư pháp tiến bộ. Một số nội dung cơ bản của nguyên tắc này là:

Thứ nhất, Tòa án phải độc lập về mặt tổ chức. Xét về góc độ bộ máy, Tòa án là một cơ quan Nhà nước, vì vậy không thể yêu cầu một sự độc lập tuyệt đối. Tuy vậy, cần khẳng định về khoa học và nguyên tắc tổ chức, Tòa án với chức năng là cơ quan giải quyết các tranh chấp, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý, lẽ phải thì cần độc lập, khách quan, vô tư, không chịu sự can thiệp vào quá trình đưa ra quyết định, hay chịu sự quản lý trực tiếp của các cơ quan Nhà nước tại địa phương dẫn tới các hệ quả chi phối về công tác cán bộ, điều kiện vật chất đảm bảo. Cần có sự thay đổi từng bước và tiến tới chỉ tổ chức Tòa án theo thẩm quyền, không phân chia theo địa hạt lãnh thổ.

Đối với Tòa án sơ thẩm, có nhiều tiêu chí để làm căn cứ tham chiếu thành lập các Tòa sơ thẩm và các Tòa sơ thẩm chuyên biệt như: Đặc điểm vùng miền, số lượng, thành phần dân cư, số lượng, loại quan hệ tranh chấp, số lượng vụ án. Minh chứng như: Đặc điểm, số lượng các tranh chấp, vụ án giải quyết tại Tòa án nhiều huyện vùng sâu, vùng xa có sự khác biệt rõ rệt so với số lượng, đặc điểm tranh chấp, số lượng các vụ án tại nhiều quận của địa phương trực thuộc Trung ương. Đối với Tòa án phúc thẩm, trên nền điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất và nhân lực trong giai đoạn hiện nay thì nên được giao “kiêm nhiệm” sơ thẩm một số vụ án lớn, phức tạp, nhưng sâu xa về lộ trình cần khẳng định định hướng từng bước được chuyên nghiệp hóa, tổ chức theo đúng nguyên tắc thẩm quyền: chỉ đảm nhiệm nhiệm vụ “phúc thẩm”. Tố tụng tại nước ta là chế độ xét xử hai cấp, Tòa án nhân dân tối cao do vậy cũng cần được chuyên biệt hóa về việc hướng dẫn pháp luật, xây dựng nguồn bổ sung pháp luật bằng án lệ và chỉ xét lại các vụ án thực sự cần thiết theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm ở cấp cao nhất.

Thứ hai, Tòa án, Hội đồng xét xử phải độc lập với Viện kiểm sát, người bào chữa khi giải quyết vụ án. Bản án, quyết định của Tòa án có thể khác biệt, có thể trùng khớp với kết luận điều tra, cáo trạng hay luận tội của VKS nhưng trong mọi trường hợp đều phải là kết quả của quá trình nghiên cứu, xem xét và tư duy độc lập của Thẩm phán, HĐXX. Tiền đề của độc lập là sự vô tư, khách quan, và muốn vô tư, khách quan thì yêu cầu Thẩm phán, HĐXX phải thường trực đặt ra sự bình đẳng các bên buộc, gỡ tội, những bên có lợi ích mâu thuẫn, đối lập hoặc tranh chấp.

Thứ ba là độc lập từ bên trong: Độc lập giữa các thành viên của HĐXX khi giải quyết vụ án. Xét xử vụ án hình sự được tiến hành theo nguyên tắc tập thể (Hội đồng xét xử gồm Thẩm phán và các Hội thẩm; chỉ quy định riêng, khác đối với các trường hợp đặc biệt như giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn); do đó yêu cầu và đòi hỏi trí tuệ, tư duy và quyết định của tập thể HĐXX. Muốn có trí tuệ và tư duy của tập thể thì từng thành viên HĐXX phải có sự nghiên cứu, xem xét, tư duy và đánh giá độc lập trong tổng thể có sự phân công, trao đổi nhằm giải quyết đúng đắn vụ án, tránh hiện tượng mặc định, ỷ lại ý kiến của Thẩm phán chủ tọa nghiễm nhiên là ý kiến giải quyết vụ án. Ở một góc độ nhất định, Thẩm phán được coi là người xét xử chuyên nghiệp, và Hội thẩm là người đại diện cho ý chí của nhân dân, đặc biệt trong nhiều vụ án còn là người bổ sung sự am hiểu chuyên sâu về các lĩnh vực, tâm sinh lý, nhận thức của người chưa thành niên để giải quyết đúng đắn vụ án. Vì lẽ đó, pháp luật quy định, trong nghị án các thành viên của HĐXX ngang quyền và độc lập, quyết định được lấy theo đa số. Mọi sự lệ thuộc về tư duy, xem xét và quyết định của Hội thẩm hoặc Thẩm phán tham gia vào Thẩm phán chủ tọa sẽ đều làm mất đi những tác dụng và ý nghĩa của nguyên tắc này.

Như vậy, có thể thấy dù trong khoa học pháp lý còn những quan điểm khác nhau chưa thống nhất về một số nội dung trong thực hiện chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tiến hành tố tụng, nhưng để thực hiện thành công yêu cầu Nghị quyết 27-NQ/TW đã đặt ra: “hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”, để từng thiết chế được vận hành hiệu quả, phát huy tác dụng tối đa thì lý luận và thực tiễn đều đặt ra yêu cầu về nguyên tắc là: Từng cơ quan tiến hành tố tụng mà trong đó Tòa án là trung tâm đều phải được nhìn nhận, quy định và thực hiện đúng, không chồng lấn, cũng không thu hẹp chức năng theo đúng hiến định./.

 

 

TRẦN HOÀNG GIANG (Tòa án quân sự Trung ương)

(1) “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Hòa Bình, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (2009).

(2) “Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân.

(3) “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân”, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp Nhà nước, TS. Uông Chu Lưu (chủ biên - 2006).

HĐXX vụ án Tân Hoàng Minh - Ảnh: Mạnh Hùng