Cơ chế xử lý hành vi không cung cấp tài liệu, chứng cứ của chủ thể có thẩm quyền trong tố tụng dân sự

BLTTDS năm 2015 quy định về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong tố tụng dân sự,  nhưng còn bỏ ngỏ một khoảng trống pháp lý khi không quy định chế tài xử lý với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không cung cấp tài liệu, chứng cứ… Đây là vấn đề cần khắc phục.

1. Quy định pháp luật về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong tố tụng dân sự

Điều 7 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 quy định “Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền” là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng dân sự. Theo đó, cơ quan, tổ chức, cá nhân (chủ thể có thẩm quyền) trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân (VKS) tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, VKS và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó. Trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Minh định nguyên tắc này, Điều 106 BLTTDS năm 2015 quy định về quyền của đương sự trong việc yêu cầu chủ thể có thẩm quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ; và các điều khoản liên quan đã quy định tương đối rõ ràng về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Theo các quy định này, trách nhiệm của chủ thể có thẩm quyền phát sinh trên hai cơ sở, bao gồm yêu cầu từ phía đương sự; và hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án. Nội dung này được phân tích như sau:

Thứ nhất, trách nhiệm cung cấp tài liêu, chứng cứ theo yêu cầu của đương sự

Khoản 6 Điều 70 BLTTDS năm 2015 quy định đương sự có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình. Trình tự, thủ tục thực hiện được xác định theo khoản 1 Điều 106 BLTTDS năm 2015. Theo đó, khi có yêu cầu hợp lệ của đương sự, chủ thể có thẩm quyền có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ cho đương sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp không cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người có yêu cầu.

Cơ sở xác định tính hợp lệ đối với yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ được xác định theo khoản 2 Điều 106 BLTTDS năm 2015, cụ thể, yêu cầu này được thể hiện dưới hình thức văn bản, và chứa đựng các thông tin cơ bản: (i) Tên tài liệu, chứng cứ; (ii) Lý do cung cấp; (iii) Họ tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ cần cung cấp.

Đánh giá tương quan trong mối liên hệ với quy định của BLTTDS năm 2004 về quyền yêu cầu chủ thể khác cung cấp tài liệu, chứng cứ, có thể thấy quy định tại Điều 106 là “điểm sáng” của BLTTDS năm 2015, góp phần đảm bảo nguyên tắc “Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” và “Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền”.

BLTTDS năm 2015 ghi nhận về quyền cũng như phương thức yêu cầu, đồng thời đặt ra nghĩa vụ đối ứng của chủ thể đang lưu giữ chứng cứ được xem là “bước tiến đáng kể” trong quá trình cụ thể hóa và bảo đảm giá trị của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh[1].

Thứ hai, trách nhiệm cung cấp tài liêu, chứng cứ theo yêu cầu Tòa án hoặc VKS

Liên quan đến việc cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án hoặc VKS, khoản 7 Điều 70 BLTTDS hiện hành ghi nhận:

(i).Đương sự đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự mình không thể thực hiện được;

(ii).Đương sự đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó.

Tương tự, đối với trường hợp chủ thể yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ là VKS thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 106 BLTTDS năm 2015, tức tương tự như cơ chế Tòa án thực hiện.

Theo quan điểm của tác giả, đánh giá trên cả ba bình diện lý luận, pháp lý và thực tiễn, việc nhà làm luật trao cho đương sự quyền này là hoàn toàn hợp tình, hợp lý, bởi lẽ:

Một, đương sự là chủ thể châm ngòi cho một quá trình tố tụng, đóng vai trò hạt nhân trong quá trình tố tụng, có quyền quyết định và tự định đoạt khi đưa ra yêu cầu hay phản đối yêu cầu từ bên đối lập, và do vậy là chủ thể chính biết được các tài liệu, chứng cứ trong vụ án. Tuy nhiên trên thực tế, không phải tài liệu, chứng cứ nào họ cũng có điều kiện được tiếp cận. Chẳng hạn như tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm đối với các giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện không thông qua hình thức văn bản mà tồn tại dưới các dạng thức hành vi hay lời nói; tài liệu, chứng cứ liên quan đến nơi cư trú của bị đơn; tài liệu, chứng cứ liên quan đến tài khoản ngân hàng của cá nhân, pháp nhân – một bên tranh chấp; tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế với cơ quan nhà nước có thẩm quyền…

Hai, trong tố tụng dân sự, mặc dù Tòa án là cơ quan xét xử nhưng vẫn có nghĩa vụ chứng minh để làm sáng tỏ chân lý khách quan của vụ việc dân sự và hoạt động chứng minh của Tòa án còn là cơ sở cho các phán quyết của mình[2]. Do vậy, việc minh định rằng đương sự quyền đề nghị Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ trong một số trường hợp góp phần nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn.

2. Quy định pháp luật về cơ chế xử lý hành vi vi phạm quy định về cung cấp tài liệu, chứng cứ của chủ thể có thẩm quyền trong tố tụng dân sự

Như đã phân tích, trường hợp có yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Chủ thể đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; hết thời hạn này mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Cạnh đó, việc xử phạt hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự không phải là lý do miễn nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ.

Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 495 BLTTDS năm 2015, cơ quan, tổ chức, cá nhân không thi hành quyết định của Tòa án về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ mà họ đang quản lý, lưu giữ thì có thể bị Tòa án xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.

Về hình thức xử phạt, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử phạt, Điều 498 BLTTDS năm 2015 quy định hành vi nêu trên thuộc nhóm hành vi “cản trở hoạt động tố tụng dân sự”, và cơ chế xử lý cụ thể được thực hiện theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính và pháp luật có liên quan. Theo đó, Điều 48 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 (Luật XLVPHC) quy định thẩm quyền xử phạt hành chính của Tòa án nhân dân (TAND), chế tài xử phạt, mức phạt cụ thể như sau:

(i) Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền phạt cảnh cáo; hoặc phạt tiền đến 1.000.000 đồng;

(ii) Chánh án TAND cấp huyện, Chánh tòa chuyên trách TAND cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự khu vực có quyền: phạt cảnh cáo; hoặc phạt tiền đến 7.500.000 đồng;

(iii) Chánh án TAND cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Chánh tòa chuyên trách TAND cấp cao có quyền: phạt cảnh cáo; hoặc phạt tiền đến mức tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật XLVPHC;

Hiện nay, Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15 ngày 18/8/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án đã có quy định điều chỉnh về vấn đề này. Theo đó, tại điểm a khoản 1 Điều 18 Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15 xác định hành vi “Không thực hiện yêu cầu của Tòa án, VKS về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ mà người đó đang quản lý, lưu giữ” là một trong những hành vi được xếp vào nhóm hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của cơ quan, người có thẩm quyền. Biện pháp xử phạt được áp dụng đối với chủ thể vi phạm là bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với cá nhân, 200.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với tổ chức[3].

Cạnh đó, căn cứ khoản 1 Điều 44 Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15, quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành, hành vi không cung cấp tài liệu, chứng cứ của chủ thể có thẩm quyền không bị xem xét xử lý hình sự. Theo đó, dưới góc độ pháp luật hình sự, Điều 383 Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định về “Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định, định giá tài sản hoặc từ chối cung cấp tài liệu”, song chủ thể thuộc phạm vi điều chỉnh của tội phạm này chỉ giới hạn phạm vi là “người tham gia tố tụng khác” (bao gồm người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người dịch thuật khi có hành vi từ chối khai báo, trốn tránh việc kết luận giám định, định giá tài sản, thẩm định giá tài sản hoặc từ chối cung cấp tài liệu mà không có lý do chính đáng) mà không bao gồm cơ quan, tổ chức, cá nhân lưu giữ tài liệu, chứng cứ.

3. Thực tiễn và một số ý kiến trao đổi, kiến nghị

3.1.Một vài vụ việc cụ thể

Để lý giải, tác giả viện dẫn, phân tích, bàn luận qua một số vụ việc sau:

Vụ việc thứ nhất: Ngày 11/3/2020, ông Q khởi kiện ra TAND Quận T yêu cầu phân chia di sản thừa kế do ông C để lại. Trong các tài sản được yêu cầu phân chia, có số tiền trong tài khoản ngân hàng đứng tên ông C. Ngày 19/6/2020, nguyên đơn có Đơn yêu cầu cung cấp tài liệu chứng cứ và gửi cho Ngân hàng V - Chi nhánh B, với nội dung: yêu cầu cung cấp 02 bản sao kê có chữ ký, đóng dấu hợp lệ của ngân hàng đối với tài khoản có thông tin chủ tài khoản Mai Xuân C. Ngày 24/6/2020, Ngân hàng V - Chi nhánh B cho rằng vì hồ sơ mở tài khoản lưu giữ tại Chi nhánh mở tài khoản nên Chi nhánh Ngân hàng chuyển tiếp Đơn yêu cầu đến Ngân hàng V - Chi nhánh T[4]. Ngày 29/6/2020, nguyên đơn tiếp tục gửi Đơn yêu cầu đến Ngân hàng V - Chi nhánh T. Theo đó, yêu cầu cung cấp sao kê có chữ ký, đóng dấu hợp lệ của Ngân hàng đối với tài khoản nêu trên trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Tuy nhiên, Ngân hàng vẫn chưa gửi sao kê hoặc bất kỳ văn bản nào khác giải quyết Đơn yêu cầu nói trên sau thời hạn.

Vụ việc thứ hai: Trong vụ việc tranh chấp về quyền sử dụng đất giữa ông V và bà T, TAND huyện đã nhiều lần yêu cầu UBND tỉnh cung cấp thông tin về việc giải tỏa, bồi thường Quốc lộ 13 có liên quan đến phần diện tích đất các bên đang tranh chấp. Tuy nhiên, vụ án phải bị tạm đình chỉ từ tháng 8/2016 đến tháng 11/2017, vì lý do đến tháng 11/2017, Tòa án mới nhận được văn bản trả lời. Như vậy, kể từ thời điểm Tòa án yêu cầu cung cấp chứng cứ cho đến khi nhận được văn bản trả lời là hơn 01 năm cơ quan lưu giữ tài liệu chứng cứ mới thi hành quyết định của Tòa án về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ. Cơ quan được yêu cầu cung cấp chứng cứ tiến hành chỉ dẫn mà không thực hiện yêu cầu, nhưng Tòa án chỉ có động thái “nhắc nhở” mà không xử lý hành chính[5].

Vụ việc thứ ba: Trong vụ án tranh chấp về xác định tư cách góp vốn của các thành viên Công ty E, vụ việc được TAND tỉnh Đ thụ lý giải quyết từ năm 2015 nhưng đến năm 2020 vẫn chưa xét xử mà nguyên nhân chủ yếu là do chủ thể lưu giữ tài liệu, chứng cứ quan trọng từ chối cung cấp. Theo đó, xét thấy hồ sơ vụ án chưa đủ cơ sở để giải quyết, ngày 28/10/2016, TAND tỉnh Đ ban hành văn bản đề nghị Công an tỉnh Đ trả lời. Ngày 29/11/2016, Tòa nhận được phúc đáp với nội dung: “Vụ án tranh chấp con dấu và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh giữa các thành viên Công ty E đã được Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Đ thụ lý giải quyết. Do vậy, yêu cầu Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Đ cung cấp toàn bộ lời khai của các bên đương sự trong vụ án cho Tòa án”[6]. Sau đó, TAND tỉnh Đ đã 02 lần gửi công văn yêu cầu Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Đ trả lời và cung cấp chứng cứ, trong công văn quy định rõ thời hạn phải có nghĩa vụ cung cấp, trường hợp không cung cấp được phải nêu rõ lý do. Tuy nhiên, câu trả lời Tòa án nhận được chỉ là sự “im lặng”. Sự thiếu thiện chí này làm cho vụ án bị trì hoãn, kéo dài, thậm chí đã quá thời hạn giải quyết vẫn chưa có phán quyết cuối cùng.

3.2. Vấn đề đặt ra

Từ các vụ việc đã viện dẫn, tác giả nhận thấy một số vấn đề như sau:

Một, trong điều kiện hiện nay, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế, khả năng tự bảo vệ, tự thu thập tài liệu, chứng cứ, tự chứng minh còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, mặc dù cho rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm và thực tế quyền lợi của họ đang bị xâm phạm nhưng lại không thể yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác cung cấp chứng cứ để làm cơ sở cho họ đòi lại quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Điển hình là trong rất nhiều vụ án, mặc dù đương sự đã mất rất nhiều công sức, thời gian đi lại để yêu cầu chủ thể đang quản lý, lưu giữ tài liệu chứng cứ cung cấp, nhưng kết quả mà người khởi kiện hay đương sự nhận được chủ yếu là các trường hợp sau: (i) không nhận được bất cứ phản hồi nào về việc cung cấp hay không cung cấp tài liệu, chứng cứ; (ii) bị từ chối với đủ mọi lý do hay thoái thác trách nhiệm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà không có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng và (iii) cung cấp không đầy đủ, không chính xác, không đúng thời hạn luật định[7].

Hai, trong rất nhiều vụ án, mặc dù Tòa án đã ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ theo quy định của BLTTDS năm 2015 để có cơ sở giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục, thời hạn luật định, tuy nhiên “cơ quan, tổ chức đang lưu giữ tài liệu chứng cứ như bản đồ, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thủ tục đăng ký đất đai… hoặc trả lời quan điểm về diện tích đất thừa, thiếu so với diện tích ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rất chậm trễ làm cho vụ án kéo dài, gây bức xúc đối với đương sự”[8]. Căn cứ quy định tại Điều 214 BLTTDS năm 2015, trường hợp “Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án”, Tòa án sẽ ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. “Do đó, có một số vụ án tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án kéo dài đến 2-3 năm mà không ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án vì cơ quan, tổ chức chưa cung cấp tài liệu, chứng cứ nên không giải quyết vụ án được”[9]. Như vậy, xét ở góc độ chủ thể yêu cầu là Tòa án, VKS thì “sự im lặng” của chủ thể có thẩm quyền vô hình trung làm cho quá trình giải quyết vụ án bị trì hoãn, dẫn đến phải tạm đình chỉ trong thời gian khá lâu, gây ảnh hưởng đến thời hạn tố tụng cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các tụng nhân.

3.3.Kiến nghị

Trên cơ sở phân tích, tác giả có một số trao đổi, kiến nghị như sau:

Thứ nhất, quy định hiện hành còn bỏ ngỏ một khoảng trống pháp lý khi không quy định chế tài xử lý với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong trường hợp không cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của đương sự. Rõ ràng, nhằm bảo đảm quyền của các tụng nhân được thực thi trên thực tế, BLTTDS năm 2015 đã quy định chế tài xử lý khi chủ thể có thẩm quyền có hành vi vi phạm pháp luật tố tụng dân sự nói chung và nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh nói riêng. Tuy nhiên, từ các kết quả được rút ra thông qua nội dung bất cập, hạn chế trong thực tiễn, tác giả cho rằng các chế tài xử lý hành vi vi phạm quy định về cung cấp chứng cứ và chứng minh trong BLTTDS năm 2015 và các văn bản có liên quan chưa bao quát hết các hành vi mà cá nhân, cơ quan, tổ chức xâm phạm tới việc thực hiện quyền khởi kiện, quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng[10].

Tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng, để mở rộng phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc chung trong các điều luật cụ thể về vấn đề chịu trách nhiệm trong hoạt động cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức, BLTTDS cần điều chỉnh cho phù hợp sự thay đổi của nguyên tắc chung, cần được sửa đổi theo hướng: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức không thực hiện trách nhiệm cung cấp chứng cứ, tài liệu liên quan tới vụ án cho đương sự, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự hoặc Toà án hoặc có hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng dân sự thì tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị Tòa án quyết định phạt cảnh cáo, phạt tiền, tạm giữ hành chính hoặc khởi tố về hình sự theo quy định của pháp luật[11].

Thêm vào đó, qua nghiên cứu quy định của pháp luật liên quan đến chế tài xử lý hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp chứng cứ trong vụ việc phá sản, tác giả nhận thấy có sự khác biệt khá lớn về phạm vi, đối tượng bị áp dụng, cũng như mức xử phạt. Theo đó, Điều 69 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, có quy định phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 2.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với tổ chức[12] khi có một trong các hành vi sau:

- Không cung cấp đầy đủ, kịp thời tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc phá sản cho chủ nợ, doanh nghiệp, hợp tác xã, Tòa án, VKS, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đúng thời hạn quy định, trừ trường hợp có lý do chính đáng.

- Cung cấp không chính xác tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc phá sản cho chủ nợ, doanh nghiệp, hợp tác xã, Tòa án, VKS, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.

Rõ ràng, trình tự thủ tục giải quyết vụ việc phá sản về cơ bản cũng chịu sự chi phối và thuộc sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng dân sự, do đó, tác giả cho rằng, sẽ phù hợp, thống nhất và tương thích hơn khi BLTTDS năm 2015 cũng quy định theo hướng như vậy. Trên tinh thần đó, thiết nghĩ cần bổ sung thêm quy định tại Chương XL BLTTDS năm 2015 về Xử lý hành vi cản trở trong hoạt động tố tụng dân sự theo một trong hai cách:

Cách thứ nhất: Điều chỉnh quy định tại Điều 495 năm BLTTDS năm 2015:

“Điều 495. Xử lý hành vi không thi hành quyết định của Tòa án, yêu cầu của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, đương sự hoặc đưa tin sai sự thật nhằm cản trở việc giải quyết vụ án của Tòa án.

1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thi hành quyết định của Tòa án, Viện kiểm sát, yêu cầu của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang quản lý, lưu giữ thì có thể bị Tòa án xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.

2. Người có hành vi đưa tin sai sự thật nhằm cản trở Tòa án giải quyết vụ án thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.”

Cách thứ hai: bổ sung thêm một điều luật quy định về hành vi không thực hiện yêu cầu của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cụ thể:

“Điều …. Xử lý hành vi không thực hiện yêu cầu của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho đương sự

1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không không thực hiện yêu cầu của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang quản lý, lưu giữ thì theo yêu cầu của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Tòa án xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.

2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không không thực hiện yêu cầu của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ mà cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.”

Thứ hai, như đã phân tích tại mục 2 Bài nghiên cứu này, Điều 498 BLTTDS năm 2015 chỉ có quy định chung: Hình thức xử phạt, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử phạt hành chính đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự được thực hiện theo quy định của Luật XLVPHC và pháp luật có liên quan mà không có quy định khung phạt tiền cụ thể đối với từng hành vi vi phạm. Điều 48 Luật XLVPHC chỉ quy định mức phạt tiền tối đa đối với từng chủ thể có thẩm quyền xử phạt. Như vậy, rõ ràng việc thiếu khuyết những quy định về khung phạt tiền cụ thể đối với từng chủ thể như các quy định hiện hành là vấn đề còn bất cập và tồn tại nhiều hạn chế, điều này gây khó khăn cho việc áp dụng các quy định trong thực tiễn giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền.

Cạnh đó, tâm lý dè chừng, ngại áp dụng mặc dù đủ cơ sở áp dụng của Tòa án các cấp trong nhiều vụ án hiện nay là vấn đề cần lưu tâm. Theo đó, như thực tiễn đã chỉ ra tại mục 3, để giải quyết tình trạng này, người tiến hành tố tụng không kiên quyết áp dụng khoản 3 Điều 106 của BLTTDS năm 2015 để kiến nghị xử lý đối với hành vi chậm trễ của cơ quan, tổ chức mà lại ra Quyết định tạm định chỉ giải quyết vụ án với lý do chờ ý kiến trả lời của cơ quan, tổ chức đang giữ tài liệu, chứng cứ”[13].

Tác giả cho rằng quy định các chế tài như BLTTDS năm 2015, Luật XLVPHC là còn khá chung chung. Từ bất cập này, tác giả kiến nghị cần tăng mức xử phạt vi phạm hành chính, tăng cường thẩm quyền xử phạt của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, tăng cường cơ chế phối hợp xử lý giữa Tòa án, VKS trong những vụ việc tương tự.

 

Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, Lai Châu xét xử vụ án dân sự - Ảnh: Lò Đanh

 

[1] Nguyễn Thị Thu Sương (2021), “Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 03, tr. 31-32.

[2] Nguyễn Vinh Hưng (2018), “Nghĩa vụ chứng minh trong BLTTDS 2015”, Tạp chí Kiểm sát, số 20, tr.6.

[3] Khoản 2 Điều 6 Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15.

[4] Công văn số 496/BSG-DVKH ngày 24/6/2020 của Ngân hàng V - Chi nhánh B 24/6/2020 trả lời v/v phối hợp cung cấp thông tin khách hàng.

[5] Nguyễn Ánh Tuyết, “Xử lý hành vi không thi hành quyết định của Tòa án và đưa tin sai sự thật”, [https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/xu-ly-hanh-vi-khong-thi-hanh-quyet-dinh-cua-toa-an-va-dua-tin-sai-su-that-nham-can-tro-viec-giai-quyet-vu-an-cua-toa-an], (truy cập ngày 09/01/2022).

[6] Công văn phúc đáp số 49/PC 46 ngày 29/11/2016 của Công an tỉnh Đ.

[7] Nguyễn Thị Thu Sương (2020), Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.51.

[8] Thanh Nghị, “Một số vướng mắc, bất cập trong việc yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ trong lĩnh vực tranh chấp đất đai”, [https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/mot-so-vuong-mac-bat-cap-trong-viec-yeu-cau-co-qua-d10-t808.html], (truy cập ngày 04/6/2023).

[10] Nguyễn Thị Thu Sương (2020), tlđd (13), tr.54.

[11] Nguyễn Thị Hằng, Lê Thị Hồng Nhung (2014), tlđd (5), tr.33.

[12] Khoản 4 Điều 4 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP.

[13] Thanh Nghị, tlđd (14), [https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/mot-so-vuong-mac-bat-cap-trong-viec-yeu-cau-co-qua-d10-t808.html], (truy cập ngày 06/5/2023).

Ths NGUYỄN THỊ THU SƯƠNG (Công ty Luật Ta Pha)