Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự - Vướng mắc và kiến nghị
Tác giả đề cập đến quy định về việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đồng thời phân tích, đưa ra những khó khăn, vướng mắc, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như giải quyết những vấn đề thực tiễn trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm.
BLTTDS năm 2015 có một số quy định về đình chỉnh xét xử vụ án dân sự. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành BLTTDS năm 2015 về việc giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm cũng như qua quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy có một số khó khăn, vướng mắc cần được sửa đổi, bổ sung để áp dụng thống nhất, hiệu quả.
1. Một tình huống cụ thể nhiều cách hiểu khác nhau
Ông Nguyễn Văn A khởi kiện ông Trần Văn B ra TAND tỉnh X để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông Nguyễn Văn A còn cung cấp một số tài liệu chứng cứ cho Tòa án. Sau khi nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, TAND tỉnh X đã tiến hành các thủ tục để ông Nguyễn Văn A đóng tiền tạm ứng án phí và sau đó Tòa án đã thụ lý đơn khởi kiện của ông. Sau khi thụ lý vụ án, TAND tỉnh X đã 02 lần ban hành giấy triệu tập và đã tống đạt hợp lệ với nội dung mời ông Nguyễn Văn A đến trụ sở Tòa án để làm việc và cung cấp một số thông tin liên quan đến việc khởi kiện của ông. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn A hai lần vắng mặt không có lý do.
TAND tỉnh X đã căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 217 của BLTTDS năm 2015 đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đối với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn A.
Không đồng ý với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của TAND tỉnh X, ông Nguyễn Văn A kháng cáo đến Tòa án cấp phúc thẩm yêu cầu hủy quyết đình đình chỉ của Tòa án nhân dân tỉnh X, với lý do Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án là ảnh hưởng đến quyền lợi của ông.
Trong trường hợp vụ án nêu trên, có hai quan điểm giải quyết vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm. Quan điểm thứ nhất: Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn A, giữ nguyên quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân tỉnh X với lý do “Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan”. Trong trường hợp này, ông Nguyễn Văn A đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt.
Quan điểm thứ hai: Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn A, hủy quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân tỉnh X, chuyển hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh X tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định chung của pháp luật. Lý do mà Tòa án cấp phúc thẩm hủy quyết định đình chỉ là: Tòa án cấp sơ thẩm chưa tiến hành đầy đủ các quá trình tố tụng tiếp theo, Tòa án cấp sơ thẩm chưa đưa vụ án ra xét xử, chưa triệu tập ông Nguyễn Văn A hợp lệ hai lần để tham dự phiên tòa.
2. Căn cứ để đình chỉ giải quyết vụ án
Tác giả cho rằng, việc Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, lý do như sau:
Điều 6 của BLTTDS năm 2015 quy định việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh trong tố tụng dân sự như sau:
“1. Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.
2. Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định.”.
Điều 96 của BLTTDS năm 2015 quy định việc giao nộp tài liệu, chứng cứ trong tố tụng dân sự như sau:
“1. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật này để giải quyết vụ việc dân sự.
4. Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.
Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự.”.
Điều 203 của BLTTDS năm 2015 quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự như sau:
“1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định như sau:
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này.”.
Điều 205 của BLTTDS năm 2015 quy định về nguyên tắc tiến hành hòa giải trong tố tụng dân sự như sau:
“1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.”.
Điều 207 của BLTTDS năm 2015 quy định về những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được, như sau:
2. Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng.
3. Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.
4. Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải.”.
Điều 208 của BLTTDS năm 2015 quy định về việc thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải trong tố tụng dân sự, như sau:
2. Trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải.”.
Điều 217 của BLTTDS năm 2015 quy định về việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, như sau:
c) Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;”.
Điều 227 của BLTTDS năm 2015 quy định về sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án dân sự, như sau:
“2. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau:
a) Nguyên đơn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật;”.
Các điều luật viện dẫn nói trên và các điều luật chung khác của BLTTDS năm 2015 đã quy định nguyên tắc căn bản về những giai đoạn giải quyết vụ án dân sự, như sau:
- Các đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án chỉ có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ và tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án hoặc đương sự theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự;
- Trường hợp đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập, để giải quyết vụ án;
- Tại Tòa án cấp sơ thẩm, việc giải quyết một vụ án dân sự cụ thể, sẽ được tiến hành qua từng giai đoạn tố tụng khác nhau và kế tiếp nhau. Trong mỗi giai đoạn tố tụng, trường hợp đương sự không đến Tòa án (mặc dù đã được triệu tập hợp lệ), nếu không vì phải nộp tạm ứng chi phí tố tụng (điểm đ khoản 1 Điều 217 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015), thì Tòa án phải chuyển việc giải quyết vụ án sang giai đoạn tố tụng kế tiếp; chỉ khi đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan, sẽ bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Xét trong quá trình giải quyết vụ án nói trên, Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập ông Nguyễn Văn A đến trụ sở Tòa án để làm việc và cung cấp một số thông tin liên quan đến việc khởi kiện của ông. Vào thời điểm này, vụ án đang ở giai đoạn tố tụng “Lập hồ sơ hồ sơ vụ án dân sự”; “Giao nộp, thu thập, xác minh, kiểm tra chứng cứ”, chưa thực hiện thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Như vậy, trong trường hợp này Tòa án cấp sơ thẩm cần thiết phải chuyển sang giai đoạn tố tụng kế tiếp (tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải). Sau đó, nếu không tiến hành hòa giải được hoặc qua việc hòa giải, các bên không thỏa thuận được với nhau về cách giải quyết vụ án thì Tòa án cấp sơ thẩm chuyển sang giai đoạn tố tụng kế tiếp (đưa vụ án ra xét xử) theo thủ tục chung. Tại phiên tòa sơ thẩm lần thứ hai (triệu tập hợp lệ cả hai lần), đương sự phải có mặt tại phiên tòa, nếu vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và khi đó, Tòa án cấp sơ thẩm mới có quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người người khởi kiện (điểm a khoản 2 Điều 227 của BLTTDS năm 2015).
3. Bất cập và kiến nghị
Theo điểm c khoản 1 Điều 217 của BLTTDS năm 2015 quy định Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp sau đây: “Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan.”
Nội dung: “nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt” có thể dẫn đến việc các Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có hai hướng áp dụng khác nhau để giải quyết vụ án:
Thứ nhất, Thẩm phán được phân công giải quyết “hiểu” triệu tập hợp lệ lần thứ hai là áp dụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng dân sự và sẽ đình chỉ giải quyết vụ án ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào nếu đương sự vắng mặt không có lý do mà đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai.
Thứ hai, Thẩm phán được phân công giải quyết “hiểu” triệu tập hợp lệ lần thứ hai chỉ áp dụng trong giai đoạn mở phiên tòa xét xử vụ án (đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm) và đình chỉ giải quyết vụ án nếu đương sự vắng mặt không có lý do mà đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai.
Việc “hiểu” và áp dụng khác nhau dẫn đến hệ quả pháp lý khác nhau. Từ đó dẫn đến, có những vụ án có tính chất tương tự nhau, đương sự đã được triệu tập để thực hiện các giai đoạn tố tụng như nhau, nhưng có thể cùng một Tòa án các Thẩm phán lại có nhiều cách giải quyết vụ án khác nhau, hoặc là đình chỉ (do đương sự đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai ở giai đoạn tố tụng chuẩn bị xét xử) hoặc là tiếp tục giải quyết theo các giai đoạn tố tụng tiếp theo đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Điều này dẫn đến việc xét xử không được thống nhất trong hệ thống Tòa án nhân dân, dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không được đảm bảo, ảnh hưởng đến sự tin tưởng của nhân dân đối với cơ quan xét xử.
Từ những phân tích trên, tác giải đề xuất bổ sung nội dung của điểm c khoản 1 Điều 217 của BLTTDS năm 2015 quy định về việc Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp sau đây:
“c) Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham dự phiên tòa mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;”
Có như thế, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của các Tòa án, các Thẩm phán về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự mới phù hợp và thống nhất, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
TAND quận Hải Châu, Đà Nẵng xét xử vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”- Ảnh: Nguyên Hạnh
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự - Vướng mắc và kiến nghị
-
Tranh chấp Hợp đồng đặt cọc hay tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
-
Tòa án thụ lý đơn khởi kiện sau khi Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật
-
Không nhất thiết phải đề cập đến “tờ vé số có phải là tài sản hay không”
Bàn về dự thảo Án lệ số 08/2024/AL
Bình luận