Đỗ Đình T không được hưởng tình tiết giảm nhẹ “phạm tội nhưng chưa gây ra thiệt hại”

Qua nghiên cứu bài viết về “Đỗ Đình T có được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” hay không?” của tác giả Đặng Đình Thái, đăng ngày 09/5/2024 tôi, cho rằng Đỗ Đình T không được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS này.

Trước tiên cần phải hiểu như thế nào là “Chưa gây thiệt hại”, hiện hay chưa có văn bản chính thức giải thích pháp luật đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” nhưng trên thực tiễn áp dụng pháp luật VKSNDTC và TANDTC cũng đã có văn bản hướng dẫn áp dụng đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này, đó là:

Theo theo điểm 6.2.1.7  Sổ tay Thẩm phán của TANDTC năm 2009 hướng dẫn “Chưa gây thiệt hại là khi tội phạm đã được thực hiện, nhưng thiệt hại không xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội. Cần phân biệt với phạm tội chưa đạt (phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội).”

Tại văn bản số 994/VKSTC-V3 ngày 09/4/2012 của VKSNDTC có hướng dẫn “Chưa gây thiệt hại” là trường hợp hậu quả vật chất do hành vi phạm tội chưa xảy ra trên thực tế như trộm cắp chưa lấy được tài sản, chưa chuyển dịch tài sản ra khỏi nơi quản lý của chủ tài sản. Nếu đã dịch chuyển tài sản ra khỏi nơi quản lý của chủ tài sản mà bị quần chúng phát hiện, đuổi theo và bị bắt quả tang hay được cơ quan điều tra thu hồi trong quá trình điều tra thì không thuộc trường hợp chưa gây thiệt hại”.

Như vậy, giữa hướng dẫn của VKSNDTC và của TANDTC nêu trên đã có sự khác nhau dẫn đến khó khăn trong quá trình vận dụng. Theo hướng dẫn tại Văn bản số 994 của VKSNDTC có thể hiểu chỉ tội phạm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt thì mới xem xét tình tiết giảm nhẹ “chưa gây thiệt hại” cho người phạm tội, còn khi tội phạm đã hoàn thành thì không thể áp dụng. Còn theo hướng dẫn tại Sổ tay Thẩm phán của TANDTC thì chưa gây thiệt hại là khi tội phạm đã được thực hiện hay nói cách khác đã hoàn thành về mặt hành vi, nhưng thiệt hại (hậu quả) không xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội và khi áp dụng tình tiết này, cần phân biệt với phạm tội chưa đạt, có nghĩa là đã xác định là thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt thì không được coi là chưa gây thiệt hại.

Tuy nhiên, đối với vụ án này hành vi của bị cáo Đỗ Đình T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và Điều 15 BLHS năm 2015. Do bị cáo phạm tội chưa đạt nên đương nhiên thiệt hại chưa xảy ra, do đó không thể áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “chưa gây thiệt hại”.

Mặt khác, theo khoản 3 Điều 57 BLHS năm 2015 quy định “Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức hình phạt tù mà điều luật quy định”. Điều đó có nghĩa là khi xác định bị cáo phạm tội trong trường hợp chưa đạt đã được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự so với phạm tội đã đạt đã hoàn thành; nếu lại tiếp tục áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “chưa gây thiệt hại” theo điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS có nghĩa là bị cáo được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hai lần, là không phù hợp và không bảo đảm tính công bằng trong việc áp dụng pháp luật hình sự.

Bên cạnh đó khoản 3 Điều 51 BLHS cũng quy định “các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt” nên trong trường hợp này không cho T hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại” là hoàn toàn phù hợp quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm về tình huống trên, rất mong nhận được sự trao đổi từ các bạn đọc.

 

 

HOÀNG ANH TUẤN (Tòa án quân sự Quân khu 7)

Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà, Kon Tum xét xử vụ án Trộm cắp tài sản - Ảnh: Sen Ngọc