GDP bình quân đầu người ước đạt 2.540 USD

Ngay sau khi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu khai mạc Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã trình bày Báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội năm 2018 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 , trong đó bao gồm cả việc đánh giá giữa kỳ thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020.

Ước cả năm vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra

Về tình hình kinh tế – xã hội 2018, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho biết, với phương châm “kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả”, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương ban hành các chương trình, kế hoạch hành động và triển khai tích cực, tập trung tháo gỡ khó khăn, xây dựng kịch bản tăng trưởng các ngành, lĩnh vực và thường xuyên kiểm tra, đôn đốc thực hiện; kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô để phát triển nhanh, bền vững, gắn liền với thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; chỉ đạo, điều hành quyết liệt, hiệu quả và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, môi trường, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cải cách thể chế, thực thi pháp luật, phòng chống tham nhũng, an ninh, quốc phòng, đối ngoại,… nỗ lực, phấn đấu ở mức cao nhất hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra.

Trong đó, kết quả nổi bật là tăng trưởng GDP 9 tháng đạt 6,98%, ước cả năm vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra (6,7%); bình quân 3 năm 2016-2018 tăng 6,57% (chỉ tiêu kế hoạch  5 năm là 6,5-7%). Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân ước cả năm dưới 4%, là năm thứ 3 liên tiếp kiểm soát dưới 4%. Tỷ giá, thị trường ngoại tệ được kiểm soát tốt; dự trữ ngoại hối Nhà nước đạt kỷ lục trên 60 tỷ USD. Thị trường chứng khoán tiếp tục phát triển, trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế; Việt Nam được đưa vào danh sách theo dõi nâng hạng lên thị trường mới nổi.

Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu 9 tháng đạt trên 352 tỷ USD, cả năm ước đạt 475 tỷ USD, tăng 11,7%; trong đó xuất khẩu 238 tỷ USD, tăng 11,2% (mục tiêu 7-8%); tiếp tục xuất siêu, 9 tháng đạt gần 5,4 tỷ USD.

Cơ cấu chuyển dịch tích cực theo hướng giảm xuất khẩu thô, tăng tỉ trọng hàng chế biến, nông sản và tăng nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. Xuất khẩu của khu vực trong nước 9 tháng tăng 17,5%, cao hơn khu vực FDI (14,6%).

Thu NSNN ước cả năm vượt 3% dự toán, cơ cấu thu bền vững hơn, tỉ trọng thu từ xuất nhập khẩu, dầu thô giảm. Thu nội địa tăng, chiếm gần 82% tổng thu cân đối NSNN.

Chi NSNN được kiểm soát chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả hơn. Tỉ trọng chi đầu tư phát triển đạt 26,8%, cao hơn giai đoạn trước (23,6%) và kế hoạch 2016-2020 (25-26%). Bội chi NSNN ước khoảng 3,67% GDP, thấp hơn mục tiêu đề ra (3,7%), dự kiến đến năm 2020 còn 3,4% (mục tiêu đề ra là dưới 4%). Nợ công khoảng 61,4% GDP, giảm mạnh so với mức 63,7% năm 2016.

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước cả năm đạt 34% GDP, 3 năm 2016-2018 ước đạt 33,5% (mục tiêu 5 năm 32-34%). Tỉ trọng vốn đầu tư Nhà nước giảm; tỷ trọng đầu tư ngoài Nhà nước tăng, trong đó đầu tư tư nhân ước đạt 42,4%, bình quân 3 năm 2016-2018 đạt 40,8%, cao hơn giai đoạn 2011-2015 (38,3%).

Vốn FDI thực hiện ước cả năm đạt 18 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay. Đã tổng kết 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài, đề ra các giải pháp mới, thu hút chọn lọc hơn, ưu tiên các lĩnh vực chế biến chế tạo, sử dụng công nghệ cao, thân thiện môi trường. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tăng; chỉ số ICOR giai đoạn 2016-2018 ở mức 6,32, thấp hơn giai đoạn 2011-2015 (6,91).

Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Đến nay đã cắt giảm, đơn giản hóa 61% điều kiện kinh doanh và 60% thủ tục kiểm tra chuyên ngành hàng hóa xuất nhập khẩu. Rà soát, giảm chi phí kinh doanh, nhất là chi phí vốn, phí BOT, chi phí tuân thủ thủ tục hành chính gắn với triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp.Việt Nam được đánh giá thuộc nhóm 10 quốc gia cam kết mạnh mẽ nhất về cải cách chính sách thuế. Cả năm có khoảng 130.000 doanh nghiệp đăng ký mới. Số lượng hợp tác xã thành lập mới tăng nhanh; doanh thu và thu nhập của người lao động được cải thiện, góp phần giảm nghèo, giữ ổn định xã hội.

Quy mô nền kinh tế tăng mạnh, năm 2018 ước đạt trên 5,5 triệu tỷ đồng (khoảng 240,5 tỷ USD), gấp trên 1,3 lần năm 2015. GDP bình quân đầu người ước đạt 2.540 USD, tăng 440 USD so với năm 2015.

“Với xu hướng tốt như hiện nay, tăng trưởng GDP giai đoạn 2016-2020 có thể sẽ đạt mục tiêu Quốc hội đề ra là 6,5-7%, cao hơn bình quân giai đoạn 2011-2015 (5,91%). Nhiều tổ chức quốc tế đánh giá Việt Nam có triển vọng tốt, là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói.

Khắc phục tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cũng thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2018. Cụ thể một số vấn đề lớn như: Trên thế giới, sự nổi lên mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tạo ra những tác động ngày càng rõ nét tới các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Những tác động mặt trái của cơ chế thị trường, của quá trình toàn cầu hóa, mạng internet, mạng xã hội,… đã làm nảy sinh thêm nhiều khó khăn, thách thức, cạnh tranh giữa các nền kinh tế trên thế giới, giữa các quốc gia trong khu vực, giữa các doanh nghiệp trong thị trường,… trở nên căng thẳng hơn; những biến đổi về văn hoá, xã hội và môi trường diễn ra nhanh và phức tạp hơn, trong đó không ít những tác động tiêu cực.

Sức ép lạm phát còn lớn do tác động của nhiều yếu tố, nhất là biến động tỷ giá, lãi suất, xu hướng tăng giá dầu thô trên thị trường quốc tế và yêu cầu thực hiện lộ trình giá thị trường đối với điện, dịch vụ giáo dục, y tế,… “Tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế từng bước được nâng lên nhưng chưa đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới, khả năng chống chịu trước những biến động bên ngoài còn hạn chế”, Thủ tướng Chính phủ đánh giá.

Tuy nhiều tổ chức quốc tế nâng hạng của nước ta trên nhiều lĩnh vực, nhất là môi trường kinh doanh, nhưng Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2018 của Việt Nam giảm 3 bậc so với năm 2017 (77/140 so với 74/135 quốc gia, vùng lãnh thổ). “Mặc dù sự tụt hạng có phần do thay đổi cơ bản trong phương pháp đánh giá, nhưng qua đó cũng thể hiện năng lực đổi mới sáng tạo, nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp, ứng dụng công nghệ cao, kỹ năng… còn thấp và chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa để khắc phục” – Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh.

Bên cạnh nội dung kinh tế, báo cáo của Thủ tướng cũng đề cập đến nhiều lĩnh vực khác. Trong đó, Thủ tướng cho biết thời gian qua, công tác thanh tra được tập trung triển khai theo kế hoạch; ban hành kết luận thanh tra đối với nhiều vụ việc nghiêm trọng, dư luận xã hội quan tâm (như AVG, cảng Quy Nhơn, Hãng phim truyện Việt Nam, đất đai tại Đà Nẵng, Thủ Thiêm…), thu hồi số lượng tiền, tài sản lớn về cho Nhà nước (kiến nghị thu hồi gần 26.000 tỷ đồng, đã thu hồi trên 14.000 tỷ đồng).

Theo Thủ tướng, công tác phòng chống tham nhũng được quyết liệt triển khai; nghiêm túc thực hiện kết luận của Tổng Bí thư tại các phiên họp của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và các cuộc họp của lãnh đạo chủ chốt. “Xử lý nghiêm sai phạm trên tinh thần kiên quyết, khách quan, công khai minh bạch, trong đó có một số cán bộ cao cấp; tập trung điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh các vụ án phức tạp, nhân dân quan tâm (như vụ đánh bạc trên internet, sai phạm tại một số ngân hàng thương mại, vụ Vũ “Nhôm”, Út “Trọc”…), được cử tri cả nước đồng tình, ủng hộ”, Thủ tướng Chính phủ nói.

Định hướng năm 2019

Về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2019, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ, năm 2018 và 2019 là hai năm có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016-2020, trong bối cảnh kinh tế khu vực và thế giới còn nhiều rủi ro, thách thức, tiếp tục kế thừa và phát huy những kết quả đã đạt được, trong năm 2019 các cấp, các ngành cần tiếp tục tập trung, đẩy mạnh thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, nâng cao năng lực ứng phó với những biến động bất thường của nền kinh tế, trọng tâm:

Một là, kiên trì mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, tiếp tục theo đuổi chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững gắn với quyết liệt thực hiện các đôt phá lớn và đẩy mạnh hơn nữa đổi mới tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế và phát triển đồng bộ các loại thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, thị trường bất động sản,….

Hai là, đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực, khu vực, ngành hàng sản xuất gắn với chú trọng thị trường đầu ra, phát triển đồng bộ cả thị trường nội địa và nước ngoài, nghiên cứu các giải pháp ứng phó chủ động, giảm tác động tiêu cực của “chiến tranh thương mại Mỹ – Trung” tới Việt Nam.

Ba là, quyết liệt thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tinh giản bộ máy, tổ chức, biên chế gắn với xây dựng Nhà nước kiến tạo, Chính phủ liêm chính, năng động, sáng tạo, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi nhất cho doanh nghiệp và người dân. Bên cạnh đó, phát triển kinh tế đi đôi với chú trọng phát triển toàn diện các lĩnh vực xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; bảo vệ môi trường; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; phát huy tinh thần ngoại giao chủ động, sáng tạo, tích cực hội nhập quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại tạo môi trường hòa bình và ổn định cho đất nước phát triển.

 

THÁI VŨ