Giải pháp nâng cao hiệu quả khi vận dụng chính sách thử nghiệm trong phát triển kinh tế số tại Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế số ngày càng đóng vai trò then chốt trong tăng trưởng kinh tế, việc vận dụng chính sách thử nghiệm (Policy sandbox) trở thành yêu cầu cấp thiết nhằm tạo điều kiện cho các mô hình kinh doanh đổi mới sáng tạo được kiểm chứng trong môi trường kiểm soát. Chính sách này không chỉ giúp doanh nghiệp thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ mới mà còn hỗ trợ cơ quan quản lý đánh giá tác động, điều chỉnh khung pháp lý phù hợp với thực tiễn phát triển.

Đặt vấn đề

Chính sách thử nghiệm (Policy sandbox) là một tập hợp các quyết định do Nhà nước ban hành nhằm thiết lập một môi trường thử nghiệm có giới hạn về thời gian và không gian. Mục đích của chính sách thử nghiệm là tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp đáp ứng các điều kiện nhất định để trực tiếp thử nghiệm các sản phẩm, dịch vụ hoặc mô hình kinh doanh đổi mới sáng tạo của họ.

Trong bối cảnh nền kinh tế số hiện nay, việc vận dụng chính sách thử nghiệm tại Việt Nam là vô cùng cần thiết. Bởi lẽ, chính sách này không chỉ góp phần hoàn thiện khung pháp lý tại Việt Nam về phát triển kinh tế số mà còn tạo môi trường pháp lý rõ ràng, linh hoạt cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khởi nghiệp được đổi mới sáng tạo mà không phải đối diện với những rào cản pháp lý. Từ đó, chính sách thử nghiệm sẽ mang đến cơ hội lớn để thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước bởi các nhà đầu tư sẽ cảm thấy chắc chắn hơn khi biết rằng các mô hình kinh doanh sẽ được thử nghiệm trong một không gian có kiểm soát. Có thể thấy, việc vận dụng chính sách thử nghiệm đem đến nguồn lực lớn cho phát triển kinh tế số, qua đó góp phần thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. Tuy nhiên, quá trình triển khai chính sách thử nghiệm tại Việt Nam vẫn gặp nhiều hạn chế, bao gồm khung pháp lý chưa đồng bộ, nhận thức của doanh nghiệp và người dân về chính sách này còn hạn chế, đồng thời chưa đảm bảo các điều kiện để vận dụng chính sách. Do đó, bài viết này sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn trên để nâng cao hiệu quả vận dụng chính sách.

1. Những vấn đề đặt ra khi vận dụng chính sách thử nghiệm trong phát triển kinh tế số tại Việt Nam

Thứ nhất, nhận thức về chính sách thử nghiệm trong phát triển kinh tế số.

Nhận thức của mỗi cá nhân về chính sách thử nghiệm trong phát triển kinh tế số tại Việt Nam đang dần hình thành, nhưng vẫn có sự khác biệt đáng kể về quan điểm và mức độ hiểu biết. Thuật ngữ “chính sách thử nghiệm” vẫn còn khá mới mẻ và xa lạ với phần lớn người dân, chủ yếu do thiếu thông tin rõ ràng và sự phổ biến rộng rãi trên các kênh truyền thông đại chúng. Các chiến dịch truyền thông hiện tại có thể chưa đủ mạnh để đưa chính sách này đến gần hơn với công chúng, đặc biệt là những người không hoạt động trong lĩnh vực công nghệ hay kinh tế.

Không chỉ người dân, nhiều doanh nghiệp - đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ, vừa và startup - cũng chưa có nhận thức đầy đủ về chính sách thử nghiệm. Trong khi một số doanh nghiệp xem đây là cơ hội quý báu để tiếp cận thị trường, thử nghiệm sản phẩm và dịch vụ trong môi trường thuận lợi, thì không ít doanh nghiệp bày tỏ lo ngại về tính minh bạch và công bằng trong việc lựa chọn đối tượng tham gia sandbox. Họ e ngại rằng các ưu đãi của chính sách có thể bị lạm dụng, tạo lợi thế cho các tập đoàn lớn hoặc những doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với cơ quan quản lý.

Thứ hai, thách thức pháp lý trong việc triển khai chính sách thử nghiệm đối với phát triển kinh tế số. Dù là một công cụ quan trọng để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nhưng tại Việt Nam, việc xây dựng khung thể chế thử nghiệm vẫn diễn ra chậm hơn so với nhiều quốc gia khác. Trong khi đó, các nước tiên tiến đã sớm áp dụng chính sách linh hoạt, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thử nghiệm mô hình kinh doanh mới, đẩy mạnh công nghệ đột phá và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Sự chậm trễ trong hoàn thiện khung pháp lý không chỉ khiến Việt Nam mất đi cơ hội thu hút đầu tư và nhân tài trong lĩnh vực công nghệ, tài chính hay môi trường mà còn có nguy cơ làm giảm tốc độ phát triển của các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo trong nước. Điều này đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt hơn từ các cơ quan quản lý nhằm xây dựng một môi trường pháp lý cởi mở, kịp thời và phù hợp với thực tiễn phát triển của nền kinh tế số.

Thứ ba, điều kiện đảm bảo cho vận dụng chính sách thử nghiệm.

Một là, khó khăn về tài chính: Mặc dù chính sách thử nghiệm mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp, nhưng chi phí tham gia các chương trình này không hề nhỏ. Các doanh nghiệp phải đầu tư đáng kể vào nghiên cứu, phát triển sản phẩm, ứng dụng công nghệ và đảm bảo tuân thủ các yêu cầu pháp lý. Đối với các doanh nghiệp nhỏ, vừa và startup, đây có thể là một thách thức lớn. Dù chính sách thử nghiệm giúp họ hiện thực hóa những mô hình kinh doanh mới, nhưng nếu thiếu sự hỗ trợ tài chính từ quỹ đầu tư hoặc chính phủ, họ có thể gặp khó khăn trong việc mở rộng, hoàn thiện và thương mại hóa sản phẩm. Điều này đặt ra nhu cầu cấp thiết về các cơ chế hỗ trợ tài chính linh hoạt để đảm bảo mọi doanh nghiệp đều có cơ hội tận dụng tối đa lợi ích của chính sách thử nghiệm.

Hai là, về huy động nguồn lực từ các bên ngoài: Một số chương trình thử nghiệm có thể không thu hút được đủ sự quan tâm và hỗ trợ từ các nhà đầu tư tư nhân hoặc quốc tế. Do tính chất mạo hiểm của các mô hình thử nghiệm, các nhà đầu tư có thể ngần ngại đầu tư vào các dự án thử nghiệm mà không có sự đảm bảo chắc chắn về lợi nhuận, điều này làm giảm hiệu quả của chính sách thử nghiệm trong việc thu hút đầu tư.

Ba là, về tư duy làm chính sách vẫn theo hướng cũ

Chính sách hiện nay chủ yếu tập trung vào việc siết chặt quản lý, với nhiều điều kiện ràng buộc khắt khe, thay vì tạo ra một môi trường linh hoạt và sáng tạo. Các công cụ quản lý cũ được áp dụng cho các mô hình kinh doanh mới, dẫn đến sự thiếu linh hoạt và hạn chế khuyến khích đổi mới. Điều này khiến cho các sáng kiến và đổi mới trong kinh doanh không thể phát huy tối đa tiềm năng.

2. Giải pháp nâng cao hiệu quả khi vận dụng chính sách thử nghiệm trong phát triển kinh tế số tại Việt Nam

Thứ nhất, cần hoàn thiện pháp luật về chính sách thử nghiệm trong phát triển kinh tế số. Để hoàn thiện pháp luật về chính sách thử nghiệm trong phát triển kinh tế số, cần hoàn thiện pháp luật về kinh tế số hoàn thiện pháp luật về chính sách thử nghiệm. Cụ thể:

Một là, hoàn thiện khung pháp chính sách về phát triển kinh tế số. Kinh tế số sở tiền đề cho sự ra đời phát triển chính sách thử nghiệm. Do đó, chỉ khi chính sách khung pháp về kinh tế số hoàn thiện thì chính sách thử nghiệm mới được vận dụng một cách hiệu quả nhất.

(i) Cần nghiên cứu sửa đổi các văn bản pháp liên quan đến công nghệ thông tin truyền thông, đặc biệt chú trọng việc nhanh chóng ban hành Luật Công nghiệp công nghệ số. Đồng thời, cần tháo gỡ các vướng mắc trong việc áp dụng các quy định về tội phạm công nghệ thông tin viễn thông, điều chỉnh chính sách liên quan đến bản quyền, sở hữu trí tuệ mở cửa thị trường nghiên cứu khoa học để thúc đẩy các đột phá trong quá trình chuyển đổi số của Việt Nam.

(ii) Cần sửa đổi bổ sung các quy định pháp đối với các ngành nhiều hình kinh doanh mới như thương mại điện tử, tài chính số ngân hàng số. Xây dựng chế quản phù hợp với môi trường kinh doanh số, điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh trong quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số. Trong ngắn hạn, cần sớm xây dựng ban hành Luật Giao dịch điện tử sửa đổi cùng các văn bản hướng dẫn, nhằm công nhận tính pháp của hồ sơ, dữ liệu, chứng từ điện tử giao dịch điện tử, tạo hành lang pháp ràng cho các nền tảng trung gian.

(iii) Cải cách thể chế để thu hút đầu vào công nghệ số trong các lĩnh vực đầu mạo hiểm cũng một yếu tố quan trọng. Điều này bao gồm việc xây dựng các chính sách tạo thuận lợi cho các hoạt động góp vốn, mua cổ phần, mua bán sáp nhập doanh nghiệp công nghệ số. Cải cách các chính sách thuế quy định sẽ giúp thu hút đầu vào nền kinh tế kỹ thuật số, hỗ trợ quá trình chuyển đổi ngành nhờ các hình kinh doanh mới.

(iv) Tiếp tục đẩy mạnh các gói chính sách hỗ trợ chuyển đổi số cho các doanh nghiệp, đặc biệt các chính sách liên quan đến vốn nguồn nhân lực. Đồng thời, cần các chính sách hỗ trợ đối với các hình kinh doanh mới, hỗ trợ các sản phẩm nội địa.

Hai là, hoàn thiện khung pháp các văn bản hướng dẫn thi hành chính sách thử nghiệm. Hiện nay, nước ta mới chỉ có Luật Thủ đô năm 2024 là văn bản pháp lý có hiệu lực điều chỉnh vấn đề này, song, lại chưa có văn bản pháp lý nào điều chỉnh đối với từng lĩnh vực cụ thể. Vì vậy, cần chú trọng hoàn thiện sớm ban hành các nghị định tạo tiền đề xây dựng khung thể chế thử nghiệm cho các lĩnh vực khác. Việc xây dựng chính sách thử nghiệm trong các lĩnh vực khác nhau thể những đặc thù riêng, nhưng vẫn phải tuân theo các nguyên tắc chung như khung thể chế thử nghiệm kiểm soát và quy trình triển khai. Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng các quy định về chính sách thử nghiệm, cần xác định các lĩnh vực ưu tiên trong vận dụng chính sách thử nghiệm và đảm bảo phạm vi đối tượng tham gia thử nghiệm đủ rộng.  Ngoài ra, cần định hình các tiêu chí điều kiện một cách cụ thể, chi tiết của các sản phẩm, dịch vụ hình kinh doanh dự kiến đưa vào thử nghiệm để các tổ chức, doanh nghiệp thể đối chiếu, tạo sở đảm bảo đủ điều kiện tham gia vào chính sách thử nghiệm. Để đảm bảo tính thống nhất đồng bộ, cần thể chế hóa các nội dung này trong các văn bản hiệu lực pháp cao như luật hoặc nghị định, tạo sở pháp cho các bộ, ngành ban hành thông hướng dẫn áp dụng trong từng lĩnh vực cụ thể.

Thứ hai, nâng cao nhận thức về chính sách thử nghiệm trong kinh tế số.

Một là, nâng cao nhận thức ý thức trách nhiệm của các chủ thể trong hội về chính sách thử nghiệm trong phát triển kinh tế số. Bản thân các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp khởi nghiệp người tiêu dùng các chủ thể trực tiếp chịu ảnh hưởng nếu chính sách thử nghiệm được áp dụng, vậy các chủ thể này phải tự ý thức tìm hiểu các quyền, nghĩa vụ lợi ích của mình khi được tham gia chính sách thử nghiệm.

Hai là, việc tăng cường truyền thông chính chìa khóa nâng cao nhận thức pháp luật về chính sách thử nghiệm. Trước tiên cần đẩy mạnh công tác truyền thông về kinh tế số. Như đã phân tích, kinh tế số chính nền tảng cốt lõi thúc đẩy sự ra đời phát triển của sandbox. Do đó, cần tuyên truyền phổ biến các quy định trong Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật Giao dịch điện tử năm 2023, Luật An ninh mạng năm 2018, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010,... nhằm nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề này. Tiếp đó, cần tuyên truyền giáo dục pháp luật về chính sách thử nghiệm. Các quy định về thử nghiệm kiểm soát được ghi nhận trong Luật Thủ đô năm 2024 nhưng hiện nay chưa bất kỳ một tổ chức hay doanh nghiệp nào tham gia thử nghiệm. Do đó, chính quyền địa phương trên địa bàn thành phố Nội cần tuyên truyền phổ biến pháp luật về vấn đề này để khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức tại thành phố Nội tham gia. Hoạt động giáo dục vận động cần được triển khai đa dạng qua nhiều hình thức nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về chính sách thử nghiệm trong kinh tế số. thể lồng ghép nội dung về pháp luật vào các chương trình tập huấn, sinh hoạt cộng đồng hoặc các sự kiện văn hóa tại địa phương, trường học nơi làm việc.

Thứ ba, cần đảm bảo hỗ trợ các điều kiện tài chính, sở hạ tầng cho doanh nghiệp tham gia thử nghiệm

Một là, xây dựng nền tảng Vietnam Sandbox Hub. Theo đó, nền tảng này sẽ đóng vai trò như một cổng thông tin tập trung, nơi doanh nghiệp thể đăng thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ công nghệ mới một cách đơn giản thuận tiện. Hệ thống này thể tích hợp công nghệ số để cho phép doanh nghiệp nộp hồ trực tuyến, theo dõi tiến trình xét duyệt nhận phản hồi nhanh chóng từ các quan quản lý, từ đó giúp doanh nghiệp nhận được hướng dẫn ràng để điều chỉnh sản phẩm phù hợp với các yêu cầu pháp lý. Ngoài ra, Vietnam Sandbox Hub thể cung cấp các tài nguyên hỗ trợ như hướng dẫn pháp lý, quy trình thử nghiệm tiêu chí đánh giá để giúp doanh nghiệp hiểu các yêu cầu khi tham gia sandbox. Đồng thời, cần đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các quan quản để nâng cao tính hiệu quả minh bạch của nền tảng trên. Tương ứng với từng lĩnh vực thử nghiệm, Vietnam Sandbox Hub thể được đặt dưới sự giám sát của các bộ ngành như: Bộ Khoa học & Công nghệ chịu trách nhiệm quản các thử nghiệm liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), blockchain công nghệ sinh học. Ngân hàng Nhà nước đảm nhận việc quản sandbox trong lĩnh vực công nghệ tài chính (fintech), thanh toán số, ngân hàng số tiền kỹ thuật số. Việc phân công ràng vai trò của từng quan giúp đảm bảo quy trình thử nghiệm minh bạch, sự quản phù hợp hạn chế xung đột chính sách giữa các ngành.

Hai là, để thúc đẩy đổi mới sáng tạo đảm bảo sự thành công của hình sandbox, Chính phủ cần các chính sách hỗ trợ tài chính công nghệ nhằm giúp doanh nghiệp đủ nguồn lực để thử nghiệm sản phẩm trong môi trường kiểm soát. Một trong những giải pháp quan trọng thành lập Quỹ hỗ trợ sandbox, cung cấp nguồn vốn ban đầu cho các startup công nghệ trong các lĩnh vực như fintech, AI, blockchain thương mại điện tử. Bên cạnh đó, Chính phủ thể tổ chức các hội nghị đầu dành riêng cho doanh nghiệp trong sandbox, nơi các startup thể trình bày dự án thử nghiệm của mình trước các nhà đầu tiềm năng.

Ba là, ngoài vấn đề tài chính, việc hỗ trợ hạ tầng công nghệ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thử nghiệm sản phẩm. Chính phủ thể xây dựng các trung tâm dữ liệu thử nghiệm, cung cấp dịch vụ điện toán đám mây, lưu trữ dữ liệu cho các startup. Điều này không chỉ giúp giảm chi phí hạ tầng còn đảm bảo doanh nghiệp môi trường công nghệ ổn định để triển khai thử nghiệm.

Thứ tư, cần nâng cao trình độ của nhà hoạch định chính sách đội ngũ quản việc thực hiện chính sách nhằm đảm bảo chính sách thử nghiệm được ban hành vận dụng một cách hiệu quả, khả thi an toàn. Trong thời gian tới, Việt Nam cần triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu thường xuyên dành cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt lãnh đạo các quan quản nhà nước. Nội dung đào tạo cần tập trung vào các xu hướng công nghệ mới như AI, blockchain, dữ liệu lớn (Big Data), cũng như chính sách thử nghiệm (sandbox policy). Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế về trao đổi kinh nghiệm với các quốc gia tiên tiến cần được chú trọng để học hỏi các hình quản hiệu quả, từ đó xây dựng khung chính sách linh hoạt, tính thích ứng cao.

Thứ năm, tăng cường giám sát việc thực thi chính sách thử nghiệm của các quan nhà nước tổ chức chính trị hội.

Một là, cần hoàn thiện chế giám sát hoạt động của việc vận dụng chính sách thử nghiệm của bộ máy quan nhà nước. Hiện nay pháp luật Việt Nam chưa quy định quan nào chịu trách nhiệm giám sát bảo đảm việc vận dụng chính sách thử nghiệm, dẫn đến thiếu sự nhất quán đồng bộ trong thực thi. vậy, cần thành lập một quan giám sát chuyên trách bởi các chuyên gia chuyên môn cao, hoạt động độc lập quyền hạn đủ lớn để kiểm tra, đánh giá đề xuất điều chỉnh chính sách khi cần thiết. Đồng thời, sự phối hợp giữa cấp trung ương địa phương cần được tăng cường để đảm bảo việc giám sát không chỉ diễn ra trên phương diện còn được thực thi chặt chẽ từng địa bàn cụ thể.

Hai là, phát huy vai trò giám sát hội. Theo đó cần phân định phạm vi giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với quan dân cử. Kết luận giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không giá trị cưỡng chế như nghị quyết của Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân, nhưng cần được các quan thẩm quyền xem xét nghiêm túc, phản hồi bằng văn bản biện pháp xử phù hợp. Ngoài ra, cần đổi mới phương thức giám sát phù hợp với tính chất hội của Mặt trận Tổ quốc theo hướng khoa học, minh bạch tính khả thi cao hơn. Khi xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát, cần xác định trách nhiệm quyền hạn của các chủ thể tham gia giám sát, cũng như nghĩa vụ của các quan, tổ chức, nhân chịu sự giám sát. Điều này giúp quá trình giám sát không bị hình thức, chung chung đi vào trọng tâm, sở để đánh giá kết quả.

Ba là, nâng cao các điều kiện vật chất để thúc đẩy hiệu quả trong quá trình giám sát việc vận dụng chính sách thử nghiệm. Để giám sát việc thực thi chính sách thử nghiệm, cần đầu vào hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, giúp thu thập, lưu trữ phân tích dữ liệu một cách nhanh chóng chính xác. Các nền tảng giám sát trực tuyến, phần mềm phân tích dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI) thể giúp theo dõi các chỉ số quan trọng trong thời gian, từ đó đưa ra các cảnh báo điều chỉnh kịp thời.

Thứ sáu, tăng cường phối hợp hợp tác quốc tế về chính sách thử nghiệm, đặc biệt chú trọng hợp tác liên ngành hợp tác quốc tế. Theo đó, Việt Nam cần chủ động tham gia vào các tổ chức quốc tế đang dẫn dắt xu hướng thử nghiệm sandbox để tận dụng kiến thức, kinh nghiệm nguồn lực từ các nước phát triển. Một trong những bước quan trọng tham gia Global Financial Innovation Network (GFIN) mạng lưới quốc tế gồm hơn 60 quan quản tài chính từ Anh, Singapore, Úc, Canada nhiều nước khác. GFIN giúp các công ty Fintech thử nghiệm sản phẩm cùng lúc tại nhiều quốc gia không cần xin giấy phép riêng lẻ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế. Đồng thời, việc tham gia GFIN cũng giúp các quan quản Việt Nam học hỏi cách giám sát sandbox từ các nước tiên tiến. Ngoài ra, Việt Nam thể hợp tác với Ngân hàng Thế giới (WB) Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) để tham gia các chương trình hỗ trợ thử nghiệm chính sách tài chính số blockchain. WB hiện đang tài trợ nhiều dự án sandbox tại các quốc gia đang phát triển, cung cấp hỗ trợ về nguồn vốn, đào tạo chuyên môn công nghệ. IMF cũng các chương trình hỗ trợ chính sách quản fintech, giúp Việt Nam xây dựng một khung pháp linh hoạt nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát rủi ro. Bên cạnh việc học hỏi kinh nghiệm, Việt Nam cũng cần thu hút đầu từ các quỹ mạo hiểm các công ty công nghệ toàn cầu để thúc đẩy quá trình thử nghiệm triển khai các công nghệ mới trong sandbox. Các tập đoàn công nghệ lớn như Google, Amazon, Microsoft, Tencent, Alibaba đều các chương trình hỗ trợ thử nghiệm AI, dữ liệu lớn blockchain. Việt Nam thể hợp tác với các tập đoàn này để thử nghiệm công nghệ mới trong sandbox, đồng thời thu hút nguồn vốn đầu tư.

Có thể thấy, việc áp dụng chính sách thử nghiệm trong phát triển kinh tế số tại Việt Nam là vô cùng cần thiết nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo môi trường pháp lý linh hoạt. Tuy nhiên, quá trình triển khai vẫn còn nhiều rào cản, từ khung pháp lý chưa hoàn thiện đến nhận thức hạn chế của doanh nghiệp và người dân.  Khi những thách thức này được giải quyết, chính sách thử nghiệm sẽ trở thành công cụ quan trọng giúp Việt Nam phát triển kinh tế số bền vững và cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

VŨ PHƯƠNG THẢO - HOÀNG THỊ PHƯƠNG MAI - VŨ VÂN HUYỀN (Sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội)

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Luật Thủ đô năm 2024.

2. Vũ Thị Lan Anh, Chuyên đề Khái quát về khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát,  Xây dựng khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát để tích cực, chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp (2023 - 2024).

3. Chu Thị Hoa (2019), Sandbox: Cơ chế thử nghiệm vận dụng trong phạm vi hạn chế - Kinh nghiệm quốc tế và một số gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 16 (391), https://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210382 , truy cập ngày 29/10/2024.

4. Nhung Đỗ, Sandbox cho Fintech Việt Nam: Kinh nghiệm từ đảo quốc Sư Tử, Thời báo Ngân hàng, https://thoibaonganhang.vn/sandbox-cho-fintech-viet-kinh-nghiem-tu-dao-quoc-su-tu-97026.html, truy cập ngày 30/10/2024.

5. Bộ Thông tin và truyền thông (2022), Nghiên cứu kinh nghiệm các nước về thử nghiệm có kiểm soát làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện chính sách cơ chế thử nghiệm có kiểm soát tại Luật Công nghiệp công nghệ số, https://cspl.mic.gov.vn/Pages/TinTuc/tinchitiet.aspx?tintucid=138535 , truy cập ngày 02/11/2024.

Ảnh minh hoạ - Nguồn: Internet.