.jpg)
Giảm hình phạt trong các vụ án kinh tế - Điều chỉnh chính sách hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân
Bài viết phân tích về chính sách xử lý đối với một số vụ án lớn về kinh tế trong thời gian gần đây. Trên cơ sở đó làm rõ tinh thần của Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 4/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết 68-NQ/TW) trong xử lý đối với các vụ án về kinh tế.
1. Đặt vấn đề
Thời gian gần đây, dư luận đặc biệt quan tâm đến một xu hướng nổi bật trong xét xử các vụ án lớn về kinh tế, nhiều bị cáo được giảm án đáng kể sau khi chủ động, tự nguyện khắc phục toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Những trường hợp này không chỉ thu hút sự chú ý vì quy mô thiệt hại và mức độ ảnh hưởng của vụ án, mà còn cho thấy một hướng tiếp cận mới, mềm dẻo hơn trong chính sách hình sự đối với tội phạm kinh tế.
Có thể kể đến bị cáo Đỗ Anh Dũng, Chủ tịch Tập đoàn Tân Hoàng Minh với số tiền khắc phục lên tới 8.600 tỷ đồng được Tòa án cấp phúc thẩm tuyên mức án 07 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Gần đây nhất là vụ đại án xảy ra tại Tập đoàn FLC, bị cáo Trịnh Văn Quyết cựu chủ tịch FLC sau khi khắc phục thiệt hại gần 2.500 tỷ đồng, đã được Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm và giảm hình phạt từ 18 năm tù xuống còn 07-08 năm tù đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chuyển hình phạt 03 năm tù về tội “Thao túng thị trường chứng khoán” thành hình phạt tiền với mức phạt 04 tỷ đồng.
Điểm chung nổi bật trong hai vụ án trên là việc giảm nhẹ hình phạt đáng kể cho các bị cáo, xuất phát từ yếu tố khắc phục triệt để thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Đây không đơn thuần là sự vận dụng linh hoạt các tình tiết giảm nhẹ theo Bộ luật Hình sự, mà cho thấy một bước chuyển trong chính sách hình sự đối với tội phạm kinh tế, theo hướng phân hóa trách nhiệm hình sự, đề cao hiệu quả khắc phục hậu quả thay vì chỉ trừng phạt nghiêm khắc.
Cách tiếp cận này phù hợp với tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW, xác định phát triển kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế và yêu cầu hoàn thiện thể chế theo hướng bảo vệ quyền tài sản, tạo môi trường pháp lý an toàn, minh bạch cho hoạt động kinh doanh. Trong bối cảnh đó, việc giảm hình phạt cho người vi phạm có thiện chí sửa sai, bồi thường toàn bộ thiệt hại được xem như một cơ chế khuyến khích, góp phần bảo vệ lợi ích nhà đầu tư, giảm áp lực xã hội, đồng thời giữ ổn định môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, để chính sách này phát huy hiệu quả bền vững, cần hiểu đúng tinh thần của Nghị quyết và có hướng dẫn rõ ràng, cụ thể, có cơ chế kiểm soát chặt chẽ nhằm tránh lạm dụng và bảo đảm sự công bằng trong xét xử các vụ án kinh tế tương tự.
2. Khắc phục hậu quả - yếu tố quyết định giảm nhẹ hình phạt trong thực tiễn xét xử các vụ án kinh tế thời gian gần đây
Theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS), một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” (điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS). Trong thực tiễn xét xử trước đây, tình tiết này thường chỉ được xem xét một cách định tính, không tác động quá lớn đến mức hình phạt. Tuy nhiên thời gian gần đây, đặc biệt trong các vụ án kinh tế lớn, tình tiết này không chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ thông thường, mà đã trở thành tiêu chí định lượng, là cơ sở quan trọng áp dụng chính sách khoan hồng trong quyết định hình phạt.
Vụ án xảy ra tại Tập đoàn Tân Hoàng Minh là một trong những đại án kinh tế nghiêm trọng được đưa ra xét xử trong thời gian gần đây, liên quan đến hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp trái pháp luật. Cụ thể, theo Bản án sơ thẩm số 177/2024/HS-ST ngày 27/3/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (TAND TPHN), bị cáo Đỗ Anh Dũng Chủ tịch HĐTV kiêm Tổng Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Khách sạn Tân Hoàng Minh đã chỉ đạo các cá nhân dưới quyền thực hiện việc phát hành 09 đợt trái phiếu của 03 công ty con trong tập đoàn, tổng trị giá gần 14.000 tỷ đồng, trong khi các doanh nghiệp này không đủ điều kiện phát hành theo quy định pháp luật. Mục đích phát hành trái phiếu không nhằm đầu tư vào các dự án đã cam kết, mà được chuyển vòng về Tân Hoàng Minh để sử dụng sai mục đích. Với thủ đoạn này, 8.643 nhà đầu tư đã bị chiếm đoạt tổng cộng hơn 8.600 tỷ đồng. Bị cáo Đỗ Anh Dũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại khoản 4 Điều 174 BLHS với khung hình phạt là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Với tính chất vụ án đặc biệt nghiêm trọng, chiếm đoạt với số tiền đặc biệt lớn của hơn 6.630 bị hại, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bị cáo Đỗ Anh Dũng mức án 08 năm tù. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm, Hội đồng Xét xử (HĐXX) đánh giá bị cáo Tân Hoàng Minh có nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong đó, tình tiết giảm nhẹ đặc biệt là khắc phục toàn bộ số tiền thiệt hại của vụ án, do vậy, HĐXX đã giảm án cho bị cáo Đỗ Anh Dũng mức án còn 07 năm tù.
Vụ đại án xảy ra tại Tập đoàn FLC, bị cáo Trịnh Văn Quyết cựu chủ tịch FLC bị xét xử về hai tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 174 BLHS, và tội “Thao túng thị trường chứng khoán” quy định tại Điều 211 BLHS, gây thiệt hại hàng nghìn tỉ đồng cho nhà đầu tư và cổ đông. Bản án hình sự sơ thẩm số 426/2024/HS-ST ngày 05/8/2024 của TAND TPHN tuyên bị cáo Trịnh Văn Quyết 18 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 03 năm tù về tội “Thao túng thị trường chứng khoán”. Tổng hợp hình phạt của hai tội danh trên là 21 năm tù. Tuy nhiên, bị cáo Trịnh Văn Quyết đã khắc phục toàn bộ thiệt hại gần 2.500 tỷ đồng, hiện đã nộp thừa hơn 20 tỷ đồng trong phần luận tội, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã đề nghị TAND cấp cao tại Hà Nội tuyên phạt bị cáo Trịnh Văn Quyết mức án 07-08 năm tù tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và chuyển hình phạt tù của tội Thao túng thị trường chứng khoán chuyển sang hình phạt tiền.
Có thể thấy rằng việc giảm sâu hình phạt cho bị cáo sau khi khắc phục toàn bộ thiệt hại trong các vụ đại án kinh tế như hai vụ đại án nêu trên cho thấy sự điều chỉnh đáng kể trong chính sách hình sự của Việt Nam. Việc xem xét giảm nhẹ hình phạt khi các bị cáo khắc phục toàn bộ thiệt hại xảy ra trong vụ án phản ánh một tư duy tư pháp hiện đại, vừa thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật với hành vi xâm phạm trật tự kinh tế, nhưng đồng thời mở ra cơ chế khoan hồng cho những cá nhân có khả năng và thiện chí khắc phục hậu quả đến cùng, tạo tiền đề cho một chính sách hình sự hiện đại, nhân văn và thích ứng với đặc thù của tội phạm kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Tinh thần Nghị quyết 68 - NQ/TW - định hướng chính sách hình sự mới đối với tội phạm trong lĩnh vực kinh tế
Nghị quyết số 68-NQ/TW đã khẳng định rõ việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực kinh tế, cần ưu tiên bằng biện pháp hành chính, dân sự, tài chính, chỉ hình sự hóa khi thật sự cần thiết và không có khả năng khắc phục hậu quả. Nghị quyết đã trở thành cơ sở chính trị quan trọng để hệ thống tư pháp điều chỉnh quan điểm xử lý tội phạm kinh tế theo hướng khoan hồng có điều kiện. Mục 2.3 Nghị quyết 68/NQ-TW nêu rõ: “Sửa đổi các quy định về pháp luật hình sự dân sự, tố tụng dân sự để đảm bảo nguyên tắc khi xử lý các sai phạm, vụ việc về dân sự kinh tế, ưu tiên áp dụng các biện pháp về dân sự, kinh tế, hành chính trước, cho phép các doanh nghiệp doanh nhân được chủ động khắc phục sai phạm, thiệt hại. Trường hợp thực tiễn áp dụng pháp luật có thể dẫn đến xử lý hình sự hoặc không xử lý hình sự thì kiên quyết không áp dụng xử lý hình sự. Trường hợp đến mức xử lý hình sự thì ưu tiên các biện pháp khắc phục hậu quả kinh tế trước và là căn cứ quan trọng để xem xét các biện pháp xử lý tiếp theo”.
Từ nội dung trên, có thể khái quát tinh thần của Nghị quyết 68/NQ-TW về chính sách hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực kinh tế như sau:
Thứ nhất, cần phân định rõ ràng giữa các loại vi phạm trong lĩnh vực kinh tế, ưu tiên xử lý bằng các biện pháp dân sự, hành chính trước, tạo điều kiện để doanh nghiệp khắc phục hậu quả.
Một trong những định hướng quan trọng của Nghị quyết 68-NQ/TW là yêu cầu đổi mới tư duy pháp lý trong xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế. Trong bối cảnh tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường ngày càng phức tạp, ranh giới giữa hành vi kinh doanh hợp pháp, hành vi vi phạm quy định hành chính, dân sự và hành vi phạm tội ngày càng mong manh. Nếu không có cơ chế phân định rõ ràng vi phạm, rất dễ dẫn đến tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế - dân sự, khiến doanh nghiệp e ngại, không dám đầu tư, đổi mới hoặc thậm chí bị “gạt khỏi sân chơi” do lỗi vô ý hoặc những rủi ro khách quan của thị trường.
Việc ưu tiên áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế, dân sự trước khi xem xét truy cứu hình sự là một bước chuyển rất lớn trong chính sách hình sự hiện đại. Theo đó, khi doanh nghiệp hoặc cá nhân vi phạm có thiện chí hợp tác, chủ động bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, thì cần được tạo điều kiện để khôi phục hoạt động, tái cấu trúc, thay vì áp dụng các biện pháp hình sự nghiêm khắc. Đây là tư duy pháp lý tiến bộ, cần được thể chế hóa rõ hơn trong quá trình sửa đổi BLHS, Bộ luật Tố tụng hình sự và các luật chuyên ngành liên quan.
Thứ hai, trường hợp hành vi vi phạm nằm ở ranh giới có thể xử lý hình sự hoặc không xử lý hình sự thì kiên quyết không áp dụng xử lý hình sự
Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng trong tư duy lập pháp và chính sách hình sự theo tinh thần của Nghị quyết 68-NQ/TW. Nguyên tắc này thể hiện rõ chủ trương nhất quán trong việc hạn chế áp dụng chế tài hình sự đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực kinh tế - dân sự, nếu các biện pháp hành chính, kinh tế hoặc dân sự đã đủ cơ sở để xử lý hiệu quả và bảo vệ lợi ích chung.
Trên thực tế có nhiều hành vi trong lĩnh vực tài chính, kế toán, thuế, đầu tư, chứng khoán… có dấu hiệu hình sự nhưng thiệt hại có thể được khắc phục toàn bộ, hoặc mức độ nguy hiểm cho xã hội chưa đến mức cần thiết phải xử lý bằng hình sự. Trong những trường hợp như vậy, việc kiên quyết không truy cứu trách nhiệm hình sự không chỉ phù hợp với tính chất vụ việc, mà còn bảo đảm sự thận trọng cần thiết khi áp dụng công cụ pháp lý nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Tuy nhiên, do chưa có hướng dẫn pháp luật cụ thể hoặc vì tâm lý "an toàn cho cơ quan xử lý", nhiều vụ việc vẫn bị khởi tố, điều tra, gây ra hậu quả không cần thiết đối với doanh nghiệp và nền kinh tế.
Về mặt chính sách, định hướng này tạo cơ sở để sửa đổi, hoàn thiện pháp luật theo hướng không hình sự hóa các quan hệ dân sự, đồng thời yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá toàn diện, khách quan về tính chất, hậu quả và khả năng khắc phục của hành vi trước khi quyết định xử lý hình sự. Việc ưu tiên biện pháp xử lý không mang tính hình sự sẽ góp phần duy trì ổn định sản xuất - kinh doanh, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân vi phạm có cơ hội sửa chữa sai lầm, khắc phục hậu quả. Nguyên tắc này, không làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật, mà hướng tới việc áp dụng pháp luật một cách hợp lý, cân bằng giữa yêu cầu răn đe, phòng ngừa với mục tiêu bảo đảm môi trường pháp lý an toàn, ổn định cho sự phát triển kinh tế.
Thứ ba, trường hợp đến mức xử lý hình sự thì ưu tiên các biện pháp khắc phục hậu quả kinh tế trước và là căn cứ quan trọng để xem xét các biện pháp xử lý tiếp theo.
Nội dung này thể hiện rõ tư duy hình sự nhân đạo và thực tế trong xử lý vi phạm kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW. Trong trường hợp hành vi vi phạm buộc phải truy cứu trách nhiệm hình sự, thì vẫn cần ưu tiên thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả kinh tế trước, tập trung thu hồi tài sản, bồi thường thiệt hại. Việc đặt khắc phục hậu quả lên trước không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý, mà là đặt trọng tâm vào lợi ích thực tế cần bảo vệ - đó là tài sản, niềm tin thị trường và sự ổn định của nền kinh tế.
Trong nhiều vụ án kinh tế lớn, nếu chỉ xử lý bị cáo bằng hình phạt tù mà không thu hồi được tài sản đã chiếm đoạt hoặc gây thất thoát thì mục tiêu của pháp luật hình sự cũng chưa thực sự đạt được. Do đó, việc tạo điều kiện để người vi phạm khắc phục hậu quả không chỉ phục vụ chính sách khoan hồng, mà còn là cách nâng cao hiệu quả thực tế của pháp luật. Người vi phạm chủ động hợp tác, tự nguyện nộp lại tài sản, bồi thường đầy đủ, sẽ được hưởng chính sách khoan hồng. Ngược lại, trường hợp cố tình tẩu tán tài sản, không hợp tác, trốn tránh nghĩa vụ thì sẽ bị xử lý nghiêm khắc hơn. Tòa án cũng bắt đầu chuyển dần từ tư duy “phạt nặng để răn đe” sang “khuyến khích khắc phục để khôi phục niềm tin và bảo vệ lợi ích thực tế”.
Như vậy, Nghị quyết 68-NQ/TW đã tạo ra một bước ngoặt trong tư duy, thể hiện rõ quan điểm của Đảng trong xử lý vi phạm trong lĩnh vực kinh tế theo hướng hạn chế hình sự hóa quan hệ kinh tế, bảo vệ quyền tự do kinh doanh, phân hóa xử lý tội phạm theo hướng khuyến khích khắc phục hậu quả, tạo môi trường pháp lý an toàn, minh bạch cho phát triển kinh tế tư nhân.
Kết luận
Có thể khẳng định rằng, xu hướng giảm án sâu trong các vụ án kinh tế sau khi khắc phục toàn bộ thiệt hại đang trở thành một hướng xử lý hình sự mang tính chính sách, phù hợp với xu thế cải cách tư pháp và tinh thần nhân đạo trong pháp luật Việt Nam hiện nay. Thay vì chỉ tập trung vào hình phạt nghiêm khắc, tư duy hình sự hiện đại đã chuyển trọng tâm sang việc khôi phục thiệt hại, tái lập trật tự kinh tế và tạo điều kiện tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội. Tuy nhiên, để chính sách này phát huy hiệu quả bền vững, cần tiếp tục thể chế hóa bằng các hướng dẫn rõ ràng của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp, nhằm tránh mâu thuẫn trong áp dụng pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất trong chính sách xử lý tội phạm, giúp nâng cao niềm tin xã hội vào công lý, tránh tạo dư luận trái chiều về những bản án "giảm sâu". Đây cũng chính là bước đi cần thiết để thể chế hóa tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW nhằm thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của khu vực kinh tế tư nhân, cân bằng giữa kỷ cương pháp luật và sự ổn định của trật tự kinh tế, tạo điều kiện để xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tài liệu tham khảo
1. Bản án sơ thẩm số 177/2024/HS-ST ngày 27/3/2024 của TAND TP. Hà Nội.
2. Bản án hình sự sơ thẩm 426/2024/HS-ST ngày 05/8/2024 của TAND TP. Hà Nội.
3. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
4. Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Ảnh minh họa - Nguồn: Internet.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Chia tài sản khi nam nữ sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn – một số khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị
-
Cấn Thành Đ, Nguyễn Đức V, Nguyễn Đức A và Nguyễn Gia B có phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 không?
-
Bắt khẩn cấp “ông bầu” Cao Tiến Đoan
-
Lời cảm ơn của Ban Tổ chức concert “Việt Nam trong tôi”
-
Trao đổi bài viết “Chiếc ghe máy đánh bắt cá có được xác định là tài sản mà Phạm Hữu V đã trộm cắp của ông Nguyễn Văn C không?”
Bình luận