Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới
(Kỳ 2)

Pháp luật giữ vai trò, vị trí, có giá trị, thực hiện chức năng như thế nào trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa nhận thức, lý luận và thực tiễn rất quan trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.

(Tiếp theo Kỳ 1)

2. Quan điểm tổng thể của Đảng ta về pháp luật, hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Quan điểm tổng thể của Đảng ta về pháp luật, hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được thể hiện trong Nghị quyết số 27-NQ/TW với những nội dung cụ thể sau đây: Tính chất, quan điểm, mục tiêu, trọng tâm, định hướng nhiệm vụ và giải pháp của hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

2.1. Về tính chất của pháp luật, hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Tính chất của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thể hiện khái quát ở hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, hiện đại, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán. Đó là pháp luật pháp quyền.

Tính chất này nói về đặc điểm về chất và lượng, về nội dung và hình thức mang tính hệ thống của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Pháp luật quyết định nội hàm cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, vì Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là phương thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước dựa trên thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã và đang xây dựng, hoàn thiện một hệ thống pháp luật đủ khả năng đáp ứng thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; chủ quyền nhân dân; tôn trọng, đảm bảo và bảo vệ quyền con người; độc lập tư pháp. Bản chất, nội dung và hình thức của hệ thống pháp luật bao gồm những thuộc tính cơ bản sau:

Thứ nhất, hệ thống pháp luật dân chủ ghi nhận chủ quyền nhân dân, kiến tạo nền dân chủ, tạo lập các cơ chế pháp lý để thực hiện chủ quyền nhân dân, quyền làm chủ của Nhân dân.

Thứ hai, hệ thống pháp luật công bằng hàm chứa các cơ hội pháp lý cho các chủ thể khác phát huy hết các năng lực, trí tuệ để mưu cầu hạnh phúc, góp phần phát triển đất nước, bảo đảm bình đẳng về cơ hội, trách nhiệm pháp lý, thụ hưởng phúc lợi xã hội; hàm chứa cả giá trị nhân đạo.

Thứ ba, hệ thống pháp luật nhân đạo thực hiện mục tiêu vì con người, lấy quyền con người, quyền công dân làm trung tâm, bảo đảm cơ hội bình đẳng cho các cá nhân trong xã hội tiếp cận những điều kiện phát triển, mưu cầu hạnh phúc chứa đựng giá trị nhân đạo.

Thứ tư, hệ thống pháp luật đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, bao quát mọi lĩnh vực quan hệ xã hội hiện thực, bao trùm các quan hệ xã hội cơ bản, có khả năng thể hiện các nhu cầu phát triển xã hội trong các văn bản quy phạm pháp luật, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội.

Thứ năm, hệ thống pháp luật đòi hỏi phải đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận.

Để đảm bảo tính đầy đủ, hệ thống pháp luật cần có các quy phạm pháp luật được cấu trúc nhằm điều chỉnh các lĩnh vực khác nhau phù hợp với bản chất của từng lĩnh vực, có đủ các chế định pháp luật cần thiết cho mỗi lĩnh vực.

Tính kịp thời của hệ thống pháp luật đòi hỏi pháp luật phải được ban hành để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với những vấn đề xuất hiện trong thực tiễn hoặc kịp thời loại bỏ các quy phạm pháp luật đã lạc hậu, không còn phù hợp, cản trở tiến trình phát triển của xã hội.

Tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật bảo đảm tính hợp pháp, hiệu lực của các văn bản pháp luật dưới luật, các quyết định và hành vi hành chính của các cơ quan nhà nước; giúp loại trừ mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định trong các nguồn pháp luật, trong các lĩnh vực khác nhau.

Pháp luật về bản chất là những quy tắc xử sự xã hội được Nhà nước ban hành. Vì vậy, pháp luật phải được công bố rộng rãi, đặc biệt là đối với những đối tượng chịu tác động trực tiếp. Minh bạch hàm chứa sự rõ ràng về nội dung, chuẩn xác và khoa học về khái niệm, đơn nghĩa trong nội dung thể hiện, dễ hiểu với đối tượng chịu sự tác động.

Tính ổn định của hệ thống pháp luật đòi hỏi các quy định trong hệ thống pháp luật không bị thay đổi một cách tùy tiện; bảo đảm tính tiên liệu. “Pháp luật thay đổi thường xuyên còn tệ hơn không có pháp luật” là đánh giá mang tính khái quát ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Tính dễ tiếp cận của hệ thống pháp luật đòi hỏi các quy định của pháp luật được tập hợp, sắp xếp theo các trật tự, thứ bậc hợp lý, thuận lợi cho việc tra cứu, tìm hiểu pháp luật của cá nhân, tổ chức.

Tính tổng thể của hệ thống pháp luật hàm định sự bao quát các thành tố khác nhau như xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, giáo dục và đào tạo pháp luật, về nguồn nhân lực. Các thành tố này hiện diện trong các lĩnh vực pháp luật điều chỉnh các quan hệ khác nhau phát sinh trong đời sống xã hội và lĩnh vực đối ngoại.

Thứ sáu, hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN phải được thực hiện nghiêm minh, hiệu quả. Đòi hỏi này hàm chứa yêu cầu pháp luật phải được thi hành, bởi pháp luật chỉ thực sự có giá trị nếu được thực hiện đầy đủ và nghiêm minh trên thực tế. Điều này có nghĩa là pháp luật chứa đựng những quy trình thực hiện gắn với thời hạn, trách nhiệm, những chế tài phù hợp đối với hành vi vi phạm, đặc biệt là đối với các vi phạm của các cơ quan thực thi pháp luật. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật phải được phát hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời, nghiêm minh.

Tính hiệu quả của pháp luật thể hiện trong tương quan giữa chi phí xây dựng, thi hành pháp luật và kết quả của việc thi hành pháp luật. Nếu phải bỏ ra nhiều chi phí xã hội để xử lý và ngăn chặn một hành vi vi phạm nhỏ thì có nghĩa là pháp luật thiếu hiệu quả.

2.2. Về quan điểm chỉ đạo việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Dưới dạng khái quát nhất, quan điểm chỉ đạo là tạo đột phá trong thể chế pháp luật, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, sử dụng pháp luật để kiểm soát quyền lực nhà nước một cách thiết thực, hiệu quả, cải cách tư pháp, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; bảo đảm thể chế hóa đầy đủ, kịp thời đường lối của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân làm trung tâm, bảo đảm Nhân dân làm chủ, kiểm soát quyền lực nhà nước, quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, tạo động lực phát triển nhanh và bền vững đất nước; xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, kế thừa những thành tựu đã đạt được trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam; thực hiện đầy đủ, có trách nhiệm Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và chế độ XHCN; đổi mới sáng tạo pháp luật để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện dân chủ XHCN, đổi mới hệ thống chính trị.

Trong 05 quan điểm được nêu ra tại Nghị quyết số 27-NQ/TW đều có nội dung trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến pháp luật, hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật ở các mức độ khác nhau.

Đặc biệt, quan điểm thứ ba trực tiếp nói về vai trò của Hiến pháp và pháp luật, quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Theo đó, cần bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức XHCN; thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và tổ chức thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng; lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Quan điểm này đòi hỏi phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm, tổ chức bộ máy nhà nước do Hiến pháp và pháp luật quy định; mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ là chỉ được làm những gì Hiến pháp và pháp luật quy định; xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong hệ thống chính trị và toàn xã hội; bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật, có cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiệu quả; mọi hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật phải được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có nhiệm vụ thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và tổ chức thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng; lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước để xây dựng được một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán, phát triển nguồn nhân lực pháp luật, nhất là nguồn nhân lực pháp luật chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Đây là điều kiện cần và đủ để bảo đảm xã hội có trật tự, kỷ cương, an toàn pháp lý cho con người, xác lập vị trí tối thượng của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Xây dựng và thực hiện pháp luật để khẳng định, hiện thực hóa các giá trị, đặc trưng, nguyên tắc, nội dung của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong đời sống xã hội và nhà nước.

2.3. Về mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Mục tiêu của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện pháp luật, trên phương diện lý luận, phải đạt được thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, đề cao vai trò, giá trị, các nguyên tắc pháp quyền, phát triển và nâng cao chất lượng thể chế pháp luật, xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, kiến tạo phát triển, bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả; nâng cao nhận thức về sự tôn nghiêm của Hiến pháp, văn hóa pháp luật, ý thức pháp luật cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân.

Trên cơ sở đánh giá trạng thái, mức độ đạt được mục tiêu của hoàn thiện hệ thống pháp luật thời gian qua và các yêu cầu trong giai đoạn mới, Nghị quyết số 27-NQ/TW chỉ rõ mục tiêu tổng quát, lâu dài, trường tồn và các mục tiêu cụ thể cần đạt được trong thời gian nhất định của tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật giai đoạn đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.

Nghị quyết số 27-NQ/TW chỉ ra mục tiêu tổng quát của hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2045 là: Có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, Nghị quyết số 27-NQ/TW cũng chỉ ra mục tiêu cụ thể của hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2030 là: Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội; hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán.

Do đó, nhiệm vụ và các giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững cũng được xác định và tổ chức thực hiện phù hợp với hai mốc thời gian trên.

2.4. Về trọng tâm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Mọi chiến lược lớn, với tầm nhìn xa rộng đều cần xác định trọng tâm hay nói cách khác là đột phá. Việc xác định trọng tâm của chiến lược có giá trị nhận thức, lý luận và thực tiễn rất quan trọng, thể hiện thái độ của cơ quan có thẩm quyền đối với những vấn đề được coi là đột phá của chiến lược, đối với việc huy động và tập trung các nguồn lực để thực hiện chiến lược. Các trọng tâm của chiến lược luôn bám sát mục tiêu, đẩy nhanh quá trình đạt được mục tiêu, hướng đến các mục tiêu ưu tiên.

Các trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới được xây dựng từ việc cụ thể hóa các đột phá của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, với tầm nhìn đến năm 2045; các nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Nghị quyết xác định rõ 03 trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó có một trọng tâm về pháp luật, hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật, đó là: Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật. Nội dung trọng tâm đó được đề ra và tổ chức thực hiện nhằm đạt được mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể nói trên của hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam giai đoạn mới.

2.5. Về định hướng nhiệm vụ hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Các định hướng nhiệm vụ hoàn thiện hệ thống pháp luật được hiểu một cách khái quát là các phương hướng tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật. Việc xác định các định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật xuất phát từ bối cảnh, đòi hỏi, cách tiếp cận, quan điểm, mục tiêu, trọng tâm của tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật. Các định hướng hiện thực hóa, cụ thể hóa nhu cầu, cách tiếp cận, quan điểm, mục tiêu, trọng tâm thành các phương hướng cụ thể, để từ đó xác định các giải pháp của tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật. 

Định hướng nhiệm vụ là thượng tôn Hiến pháp và pháp luật (nâng cao nhận thức về sự thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong hệ thống chính trị và toàn xã hội...); tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững; tiếp tục đổi mới căn bản, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động lập pháp, bảo đảm quản trị quốc gia bằng Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp; hoàn thiện pháp luật về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng; tập trung phát triển toàn diện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; đổi mới nghiên cứu và giáo dục đào tạo về pháp luật.

2.6. Về các nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Các giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn mới là các phương pháp cụ thể để thực hiện các định hướng nhiệm vụ, hiện thực hóa quan điểm, mục tiêu, trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Nghị quyết số 27-NQ/TW đã xác định 42 nhóm giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trong đó có các nhóm giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật. Đó là các nhóm giải pháp sau đây:

Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về Hiến pháp và pháp luật nói riêng, về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới:

- Đề cao pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp; con người là trung tâm của quá trình phát triển; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân và được kiểm soát bởi Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; công dân có thể làm tất cả những gì pháp luật không cấm; cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức chỉ được làm những gì pháp luật quy định; hệ thống pháp luật phải dân chủ, công bằng, nhân đạo; bảo đảm thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả; không ngừng nâng cao văn hóa pháp luật, đặc biệt là văn hóa Hiến pháp, ý thức và lối sống tuân theo Hiến pháp và pháp luật.

- Quán triệt nhận thức thống nhất về mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong hệ thống chính trị và trong xã hội: Nhà nước pháp quyền là một giá trị vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù; không có mô hình NNPQ chung cho mọi quốc gia, dân tộc, mỗi quốc gia, dân tộc dựa vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và trình độ phát triển để xây dựng cho mình mô hình NNPQ phù hợp; Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là mô hình tổ chức và hoạt động dựa trên nền tảng pháp luật.

- Xây dựng và thực hiện hệ tư tưởng pháp luật quốc gia, trong đó các tư tưởng, giá trị pháp quyền, nguyên tắc pháp quyền, pháp luật là cốt lõi, trung tâm, làm nền tảng cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; tiếp tục nghiên cứu xây dựng hệ thống lý luận đầy đủ, toàn diện, sâu sắc, bao trùm về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; nghiên cứu hệ tư tưởng pháp luật quốc gia.

- Nâng cao văn hóa pháp luật, pháp quyền, ý thức pháp luật của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân.

- Phát triển khoa học pháp lý, các cơ sở nghiên cứu và đào tạo pháp luật, đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng về NNPQ, xây dựng cơ chế phối hợp nghiên cứu giữa các tổ chức nghiên cứu và đào tạo, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ nghiên cứu và đào tạo pháp luật, có cơ chế đào tạo chuyên gia pháp luật chất lượng cao, bản lĩnh vững vàng; xây dựng chương trình nghiên cứu khoa học mới về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục sâu rộng về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp, theo những phương thức, nội dung phù hợp với từng nhóm chủ thể trong xã hội, chú trọng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; đổi mới phương thức, sử dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng môn học (nội dung) về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Bảo đảm các tổ chức Đảng và đảng viên nhận thức đầy đủ, sâu sắc về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, về thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, tổ chức xã hội có trách nhiệm nâng cao nhận thức về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, về thượng tôn Hiến pháp và pháp luật.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật để bảo đảm chủ quyền nhân dân, quyền làm chủ của Nhân dân, vai trò chủ thể, trung tâm của Nhân dân; phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của Nhân dân; thực hiện phương châm tổng quát “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”:

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật về cơ chế bảo đảm chủ quyền nhân dân, quyền làm chủ của Nhân dân và thực hành dân chủ, bao gồm dân chủ trực tiếp, dân chủ ở cơ sở, dân chủ đại diện và Nhân dân thực hiện quyền lực qua các cơ quan nhà nước; tiếp tục thể chế hóa các quyền dân chủ hiến định của người dân, trong đó bao gồm các quyền tự do lập hội, tự do hội họp, quyền biểu tình…

- Mở rộng các thể chế pháp luật về dân chủ trực tiếp; hoàn thiện cơ chế để người dân có thể thực hiện quyền trưng cầu ý dân trong thực tế ở cấp trung ương và địa phương; bổ sung các hình thức dân chủ trực tiếp, trong đó người dân có thể nêu kiến nghị về xây dựng, sửa đổi chính sách, pháp luật hoặc giải quyết một vấn đề xã hội với các cơ quan dân cử.

- Đổi mới mạnh mẽ tư duy và cơ chế bầu cử để lựa chọn những người xứng đáng đại diện cho Nhân dân; đổi mới các quy định của pháp luật về bầu cử, thực hiện quyền bầu cử, đơn vị bầu cử, tiêu chuẩn đại biểu dân cử, cạnh tranh trong bầu cử; về đề cử, ứng cử, về hiệp thương… để bảo đảm và nâng cao tính thực chất và dân chủ của bầu cử; nghiên cứu việc bỏ phiếu bầu cử của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài, làm rõ những trường hợp không được bầu cử.

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật để thực hiện đầy đủ cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” với chủ quyền của Nhân dân là tối cao, Nhà nước thực sự là Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Tiếp tục hoàn thiện các thể chế pháp luật để phát huy đầy đủ và hiệu quả vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, tổ chức xã hội trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Thể chế hóa bằng pháp luật và thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Thứ ba, tiếp tục cụ thể hóa các quyền hiến định; tổ chức thực hiện tốt pháp luật về quyền con người, quyền công dân; xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; đề cao trách nhiệm của các thiết chế nhà nước trong tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân:

- Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa đầy đủ, toàn diện quan điểm, chủ trương của Đảng và Hiến pháp năm 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân vào hệ thống pháp luật.

- Tiến hành rà soát hệ thống pháp luật để sửa đổi, bổ sung, bảo đảm sự tương thích đầy đủ với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia; loại bỏ các văn bản, quy định của pháp luật không phù hợp với các quyền hiến định và gây trở ngại cho việc thực hiện và bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.

- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến kiến thức, thông tin và các hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân cho mọi tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống chính trị.  

- Quy định cụ thể trách nhiệm của các thiết chế nhà nước trong tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; lấy việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân làm tiêu chí đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước; đưa nguyên tắc tiếp cận dựa trên quyền con người thành yêu cầu trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật.

- Xây dựng và hoàn thiện các thiết chế giám sát, bảo đảm thực hiện, bảo hộ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; thiết lập cơ quan quốc gia về quyền con người.

- Xây dựng cơ chế xử lý vi phạm quyền con người, quyền công dân; cơ chế khắc phục, bồi thường kịp thời và công bằng thiệt hại do các hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân gây ra.

Thứ tư, xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong hệ thống chính trị và toàn xã hội; bảo đảm thi hành và bảo vệ Hiến pháp:

- Từng bước xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp trong toàn thể hệ thống chính trị và toàn thể xã hội; thường xuyên tuyên truyền, phổ biến trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội về vị trí, vai trò đặc biệt của Hiến pháp, về sự cần thiết, ý nghĩa của việc thượng tôn Hiến pháp.

- Đưa nội dung phù hợp về Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng hệ thống giáo dục quốc dân: Tất cả các cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là hệ thống các trường Đảng, các trường luật; củng cố, mở rộng các hình thức tôn vinh Hiến pháp trong hoạt động của bộ máy nhà nước (tuyên thệ với Hiến pháp của các lãnh đạo cấp cao khi nhậm chức, học tập về Hiến pháp của các cán bộ nguồn lãnh đạo...) và trong xã hội (tổ chức Ngày Hiến pháp Việt Nam, các cuộc thi tìm hiểu về Hiến pháp Việt Nam…).

- Nâng cao ý thức, trách nhiệm, năng lực của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong thực thi Hiến pháp, pháp luật; xây dựng cơ chế bảo đảm hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp trong đời sống nhà nước và xã hội; Thẩm phán phải căn cứ trực tiếp vào Hiến pháp trong xét xử; người dân, tổ chức, doanh nghiệp có quyền viện dẫn trực tiếp quy định của Hiến pháp để khiếu nại, tố cáo, khởi kiện…; các cơ quan nhà nước khác không được lấy lý do chưa có luật hướng dẫn thi hành để từ chối áp dụng Hiến pháp.

- Cụ thể hóa và xây dựng cơ chế để các chủ thể trong xã hội thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp theo quy định tại Điều 119 Hiến pháp năm 2013, tiến tới thành lập một thiết chế hiến định độc lập về bảo vệ Hiến pháp.

Thứ năm, xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, hiện đại, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, có khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo:

- Quán triệt nhận thức về bản chất, vai trò, giá trị, chức năng của pháp luật để sử dụng pháp luật một cách đúng đắn, hiệu quả, phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước, phát triển xã hội Việt Nam theo hướng đề cao và phát huy bản chất xã hội, bản chất nhân văn, vai trò dẫn dắt, thuyết phục, sáng tạo của pháp luật; pháp luật là phương thức quản trị quốc gia, tổ chức đời sống nhà nước và xã hội, là nhân tố thiết lập trật tự xã hội, thúc đẩy phát triển xã hội, thực hiện, kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước; bảo đảm pháp luật là một đại lượng công bằng, văn minh, công khai, minh bạch, tiên liệu được; tăng cường và nâng cao chất lượng điều chỉnh pháp luật; bảo đảm các chính sách, cải cách đều phải dựa trên pháp luật.

- Hiện đại hóa hệ thống pháp luật, đẩy nhanh vững chắc việc xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo; chú trọng xây dựng pháp luật theo chiều sâu và nâng cao chất lượng pháp luật; bảo đảm sự đồng bộ và kịp thời trong xây dựng chính sách, pháp luật giữa Quốc hội với Chính phủ, giữa các bộ, ngành, giữa trung ương và địa phương, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm.

- Đa dạng hóa nguồn pháp luật, đề cao và coi trọng đạo luật, đơn giản hóa, giảm tầng nấc, loại hình văn bản trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; xác định đúng, rõ các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất việc sử dụng hình thức pháp lệnh để ban hành quy phạm pháp luật; luật hóa đến mức tối đa những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội; tăng cường xây dựng các đạo luật có nội dung cụ thể, hiệu lực trực tiếp, không cần có nghị định hướng dẫn thi hành, tiến đến không sử dụng hình thức pháp lệnh để ban hành quy phạm pháp luật, hình thức văn bản quy phạm pháp luật là nghị định, nghị quyết của Chính phủ và thông tư của các bộ, ngành; khắc phục tình trạng luật thiếu ổn định, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành; tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý văn bản quy phạm trái pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong công tác xây dựng pháp luật; khắc phục tư duy và thói quen đề cao việc áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý thấp hơn trong thực tiễn; hình thành tư duy và thói quen áp dụng án lệ trong thực tiễn.

- Tiếp tục đổi mới sáng tạo pháp luật để huy động, phát huy, phân bổ hiệu quả các nguồn lực phát triển đất nước, giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội (xã hội pháp quyền), nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô, xây dựng, phát triển xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, trật tự, kỷ cương, an toàn; xác định các lĩnh vực, vấn đề đột phá, trọng điểm cần ưu tiên đầu tư để đổi mới sáng tạo pháp luật, đặc biệt là hoàn thiện pháp luật: (1) Về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị; (2) Về phát huy dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; (3) Về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN đầy đủ, đồng bộ, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học và công nghệ, về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; (4) Về phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ; (5) Về phát triển nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài; (6) Về văn hóa, thông tin, truyền thông, thể thao, y tế, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; (7) Về phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn; (8) Về tư pháp, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; (9) Về đối ngoại và hội nhập quốc tế.

- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả; quy định rõ quy trình xây dựng chính sách, phân định rõ quy trình lập pháp và quy trình xây dựng văn bản dưới luật; phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể, đặc biệt là Chính phủ trong quy trình lập pháp; bảo đảm đồng bộ, kịp thời trong xây dựng chính sách, pháp luật giữa Quốc hội với Chính phủ, giữa các bộ, giữa trung ương và địa phương.

- Hiện đại hóa phương thức, quy trình xây dựng pháp luật để nâng cao chất lượng pháp luật; bảo đảm đầy đủ cơ sở chính trị, xã hội, văn hóa trong xây dựng pháp luật; hiện đại hóa phương tiện, công nghệ, kỹ thuật xây dựng pháp luật để tiết kiệm chi phí; tiến hành kiểm kê tổng thể và cụ thể các văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống hóa tổng thể và pháp điển hóa các văn bản quy phạm pháp luật, quy định cơ chế giải trình minh bạch trong xây dựng pháp luật.

- Nâng cao trình độ và năng lực xây dựng pháp luật của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, các cơ quan chuẩn bị dự án luật và các dự án văn bản quy phạm pháp luật khác, cán bộ làm việc tại Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, chính quyền địa phương trong công tác xây dựng pháp luật; phát triển nguồn nhân lực xây dựng pháp luật.

- Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân, hoàn thiện cơ chế huy động sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, tổ chức nghiên cứu, đào tạo, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, hiệp hội doanh nghiệp vào việc soạn thảo, thẩm định, thẩm tra các dự thảo văn bản pháp luật; xây dựng và hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội và tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân dân đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng cơ chế thẩm định bắt buộc về mặt khoa học đối với các dự án văn bản luật được đệ trình và thông qua.

Thứ sáu, gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thực hiện pháp luật; nâng cao năng lực thực thi pháp luật; đổi mới cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật; chủ động phòng ngừa vi phạm pháp luật; phát hiện và xử lý kịp thời, công bằng, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật:

- Khẳng định tầm quan trọng của thực hiện pháp luật trong NNPQ trong mối quan hệ với xây dựng và bảo vệ pháp luật; bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả; Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương là những chủ thể có trách nhiệm chủ yếu trong việc tổ chức thực hiện pháp luật; xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong tổ chức thi hành pháp luật.

- Hoàn thiện cơ chế giải thích pháp luật; đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với thực hiện pháp luật; tập trung chỉ đạo quyết liệt và dành các nguồn lực thích đáng cho thực hiện pháp luật; hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành, áp dụng pháp luật, đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật; nâng cao năng lực tổ chức thi hành và áp dụng pháp luật của các cơ quan, tổ chức và đội ngũ cán bộ, công chức thực thi công vụ.

- Hoàn thiện cơ chế pháp lý, đặc biệt là trình tự, thủ tục thi hành, áp dụng pháp luật; hiện đại hóa việc thi hành, áp dụng pháp luật; xây dựng cơ sở dữ liệu về thi hành, áp dụng pháp luật; áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong thi hành và áp dụng pháp luật; tăng cường tổng kết, hướng dẫn thi hành, áp dụng pháp luật đi đôi với xây dựng án lệ và sửa đổi, bổ sung pháp luật.

- Hoàn thiện cơ chế theo dõi thi hành pháp luật; cơ chế phòng ngừa vi phạm pháp luật; tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong thi hành và áp dụng pháp luật; tăng cường sự giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên, tổ chức xã hội, các cơ quan truyền thông và người dân đối với thi hành và áp dụng pháp luật.

- Đổi mới sâu rộng cơ chế tổ chức thi hành pháp luật hành chính; phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các cơ quan, tổ chức, bộ, ngành, địa phương trong thi hành pháp luật hành chính; củng cố cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thi hành pháp luật hành chính với các cơ quan tư pháp hình sự; tăng cường thi hành pháp luật trong các lĩnh vực quan trọng liên quan đến lợi ích thiết yếu của người dân như an toàn thực phẩm, an toàn lao động, an toàn giao thông, y tế, sức khỏe cộng đồng, môi trường…

- Tăng cường năng lực sử dụng pháp luật của người dân và doanh nghiệp; xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp lý để người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận với pháp luật và nâng cao năng lực sử dụng pháp luật.

- Tiếp tục đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; đa dạng hóa các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo đảm cung cấp thông tin pháp luật đầy đủ, chính xác, kịp thời cho người dân và doanh nghiệp; tăng cường ứng dụng các nền tảng công nghệ số và các công nghệ hiện đại khác trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật; nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật trong hệ thống giáo dục quốc dân; có giải pháp nâng cao ý thức và nhu cầu tự tìm hiểu pháp luật của người dân và doanh nghiệp.

- Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật; hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý kịp thời, hiệu quả kiến nghị, phản ánh của người dân, doanh nghiệp.

- Phát triển nguồn nhân lực pháp luật, hiện đại hóa phương thức, phương tiện xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật; củng cố, kiện toàn tổ chức pháp chế, tổ chức làm công tác pháp luật; nâng cao năng lực, trình độ, bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng và thi hành pháp luật; phát triển khoa học pháp lý, nâng cao chất lượng các cơ sở nghiên cứu và đào tạo pháp luật; có cơ chế thích hợp bảo đảm và tăng cường nguồn lực đầu tư, đổi mới cơ chế phân bổ, sử dụng hiệu quả kinh phí xây dựng và thi hành pháp luật; tăng cường phát triển nguồn nhân lực thi hành, áp dụng pháp luật, nâng cao năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ thi hành, áp dụng pháp luật.

Thứ bảy, hoàn thiện thể chế pháp luật về cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo các nguyên tắc pháp quyền; đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả:

- Tiếp tục xác định rõ, đầy đủ, đúng đắn về sự thống nhất của quyền lực nhà nước, về cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Hoàn thiện cơ chế thực thi quyền lực nhà nước, xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của mỗi cơ quan và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực bên trong mỗi cơ quan và giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương và giữa các cơ quan trong cùng một cấp chính quyền.

- Quy định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp; của cơ quan tư pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền lập pháp. Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức.

- Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ, trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch trong từng cơ quan nhà nước.

- Hoàn thiện cơ chế để Nhân dân trực tiếp kiểm soát quyền lực nhà nước; bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, quyền kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo và các quyền khác của công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể và các cơ quan báo chí trong giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước.

- Tiếp tục đổi mới thể chế pháp luật để bảo đảm tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo các nguyên tắc pháp quyền; tiếp tục đổi mới thể chế về quản trị quốc gia, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội, theo các nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, minh bạch, trách nhiệm giải trình, sự tham gia của người dân, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả, phát triển bao trùm và định hướng đồng thuận.

Thứ tám, hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:

- Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế; giải quyết hiệu quả các xung đột về thẩm quyền và pháp luật giữa Việt Nam và các quốc gia khác, bảo đảm tốt các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước Việt Nam.

- Hoàn thiện cơ chế và nâng cao năng lực của các cơ quan, tổ chức có liên quan, thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

- Nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo nhân lực hợp tác pháp luật quốc tế; xây dựng cơ chế thúc đẩy sự tham gia và hiện diện của chuyên gia pháp luật Việt Nam trong các thiết chế pháp luật quốc tế; hoàn thiện cơ chế pháp lý về bảo hộ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân, pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài.

- Tăng cường công tác thông tin đối ngoại về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thành tựu trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Việt Nam.

GS.TS VÕ KHÁNH VINH

Theo Kiemsat.vn

Chánh án TANDTC Nguyễn Hoà Bình phát biểu tại phiên họp UBTVQH. Ảnh: NT