Khó khăn khi buộc chấp hành án phạt tù đối với bản án đã cho hưởng án treo

Án treo là chế định pháp lý hình sự có liên quan đến việc chấp hành hình phạt, thay thế hình phạt tù khi có những điều kiện nhất định. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo vi phạm các nghĩa vụ thì có thể bị buộc thi hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Tuy nhiên, quá trình thực hiện việc này còn gặp khó khăn.

Khi người phạm tội có đủ những điều kiện nhất định và Tòa án xét thấy không cần phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội mà vẫn có thể cải tạo được, có thể miễn chấp hành tại trại giam, để người đó tự cải tạo dưới sự giám sát, quản lý và giáo dục tại địa phương nơi cư trú của chính quyền sở tại, thì Tòa án có thể xem xét cho người đó hưởng án treo. Thay vì hình phạt tù, người được hưởng án treo sẽ chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú trong thời gian thử thách.

Việc xử lý người vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách có sự liên quan của nhiều cơ quan hữu quan và Tòa án là cơ quan có quyền quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù  theo quy định tại Điều 93 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của HĐTP TANDTC về hướng dẫn áp dụng Điều 65 về án treo. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định pháp luật. Trong thời gian này, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì theo đề nghị của Cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc Cơ quan Thi hành án hình sự cấp quân khu, Tòa án có thể ra quyết định buộc người đó chấp hành hình phạt tù.

Tuy nhiên, trường hợp người được hưởng án treo cố tình vắng mặt tại nơi cư trú thì việc buộc người này chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo còn một số khó khăn. Cụ thể, trong trường hợp người được hưởng án treo (gọi là A) trong hai tháng liên tiếp không nộp bản tự nhận xét việc chấp hành nghĩa vụ. Sau đó, Công an xã X đã 3 lần thông báo A lên làm việc nhưng A đều vắng mặt tại nơi cư trú mà không báo cáo Ủy ban nhân dân xã X. Trong trường hợp này, Ủy ban nhân dân xã X đã tiến hành họp kiểm điểm đối với A (nhưng vắng mặt A), sau đó báo cáo về vi phạm của A và đề nghị Cơ quan Thi hành án hình sự cấp huyện ra văn bản đề nghị Tòa án buộc A phải chấp hành án phạt tù.

Thực tế, A đã vi phạm nghĩa vụ của người được hưởng án treo trong thời gian thử thách, cụ thể là không nộp bản tự nhận xét việc chấp hành nghĩa vụ (vi phạm khoản 6 Điều 87 Luật Thi hành án hình sự); vắng mặt tại nơi cư trú khi chưa xin phép Ủy ban nhân dân xã X (vi phạm khoản 2 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự). Theo Điều 93 Luật Thi hành án hình sự, trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo đã bị kiểm điểm theo quy định tại Điều 91 của Luật này nhưng sau khi kiểm điểm vẫn tiếp tục vi phạm và đã được nhắc nhở bằng văn bản mà vẫn cố ý vi phạm thì Công an cấp xã đề xuất Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo, đề nghị cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện tiến hành trình tự, thủ tục đề nghị Tòa án có thẩm quyền quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Đồng thời, việc kiểm điểm người vi phạm nghĩa vụ phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục quy định, cụ thể là Thông tư 65/2019/TT-BCA ngày 28/11/2019 của Bộ Công an. Theo đó, khoản 6 Điều 3 TT này quy định:

Việc kiểm điểm người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện vi phạm nghĩa vụ thực hiện như sau:

a) Công an cấp xã tham mưu với Ủy ban nhân dân cấp xã để tổ chức cuộc họp kiểm điểm. Thành phần tham gia gồm có đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã (chủ trì), đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cơ sở, đại diện khu dân cư, đại diện Công an cấp xã, cán bộ Công an cấp xã được phân công quản lý, giám sát, giáo dục người chấp hành án (thư ký), thân nhân người chấp hành án (nếu có).

b) Nội dung cuộc họp: Chủ trì quán triệt các nội dung về cuộc họp; người chấp hành án trình bày bản tự kiểm điểm, trong đó nêu rõ vụ việc vi phạm và phương hướng khắc phục, sửa chữa, phn đấu; những người tham gia cuộc họp có ý kiến; chủ trì có ý kiến kết luận, thống nhất các nội dung và hình thức xử lý đối với người chấp hành án; lập biên bản cuộc họp, có chữ ký của những người tham gia để lưu hồ sơ quản lý, giám sát, giáo dục. Công an cấp xã tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện về việc họp kiểm điểm người chấp hành án (gửi kèm theo biên bản cuộc họp).

Như vậy, theo quy định này, việc kiểm điểm phải có sự tham gia của người được hưởng án treo để người đó trình bày bản tự kiểm điểm, nêu rõ vụ việc vi phạm, phương hướng khắc phục, sữa chữa. Có người cho rằng, quy định trên không quy định một cách trực tiếp về việc phải có mặt người bị kiểm điểm mà chỉ quy định trình tự của một buổi họp kiểm điểm, trong trường hợp có đủ thành phần theo quy định, có mặt người đó thì người đó sẽ trình bày bản tự kiểm điểm, nếu vắng mặt thì vẫn tiến hành nhưng khuyết đi bước này.

Tôi không đồng ý với quan điểm này. Mặc dù quy định trên không quy định một cách trực tiếp rằng buổi họp kiểm điểm phải có mặt người vi phạm nghĩa vụ nhưng xét về tính chất, mục đích của buổi họp kiểm điểm, thì rõ ràng nó không đơn thuần chỉ là thủ tục đến tiến hành việc buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo, mà quan trọng hơn cả, mục đích của việc kiểm điểm là để người vi phạm nghĩa vụ thấy được, nhận thức được hành vi vi phạm của mình, hậu quả pháp lý và từ đó có phương hướng khắc phục vi phạm. Qua đó, hiệu quả giáo dục, cải tạo cũng như phòng ngừa tội phạm được nâng lên. Do đó, quy định trên được hiểu buổi họp kiểm điểm phải có mặt của người được hưởng án treo mà vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách.

Tuy nhiên, theo trường hợp trên thì A không có mặt tại nơi cư trú nên không thể tham gia buổi họp kiểm điểm dẫn đến hồ sơ đề nghị của Cơ quan Thi hành án đề nghị Tòa án quyết định buộc A phải chấp hành án phạt tù không bảo đảm trình tự, thủ tục nên khó khăn trong công tác này. Theo tôi, khi người được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ từ 02 lần trở lên, đã được thông báo, triệu tập đến làm việc nhưng vắng mặt tại địa phương thì Ủy ban nhân dân báo cáo và đề nghị Cơ quan Thi hành án hình sự có văn bản đề nghị Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo ngay mà không cần thực hiện việc kiểm điểm. Do đó, cần có quy định cụ thể về trường hợp này để việc thi hành án được bảo đảm, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. /.

 

Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù giam vì vi phạm thử thách bản án đã cho hưởng án treo- Ảnh: Việt Bắc

 

VĂN LINH (TAQS Khu vực Hải quân)