Kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ, điều khiển phiên tòa hình sự và nâng cao chất lượng tranh tụng

Hoạt động xét xử tại phiên tòa được xem là hoạt động quan trọng nhất của Tòa án. Hội đồng xét xử thực hiện chức năng của mình để đưa ra những phán quyết khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên toà.

1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa.

1.1.Thực trạng hiện nay

Trong thời gian qua, từ thực tiễn công tác tôi nhận thấy việc thực hiện tranh tụng tại phiên tòa còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau, có những nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Trong đó nguyên nhân chủ yếu là do những quy định của BLTTHS còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết dẫn tới những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, như tình trạng phân định các chức năng tố tụng không rõ ràng, còn chồng chéo dẫn tới việc HĐXX nhiều khi còn làm thay chức năng của VKS như HĐXX còn đặt ra những câu hỏi mang tính áp đặt buộc bị cáo khai đúng với những lời khai trước đó; Kiểm sát viên tại phiên tòa không thực hiện việc đối đáp lại ý kiến của bị cáo…

Bên cạnh đó, tranh tụng tại phiên tòa cũng bị hạn chế bởi tình trạng vi phạm các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS như nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án, nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa vẫn xảy ra. Thể hiện qua việc một số Thẩm phán còn hạn chế thời gian trình bày lời bào chữa của bị cáo hoặc người bào chữa; không yêu cầu Kiểm sát viên đối đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, chỉ chú ý tới chứng cứ buộc tội do Viện kiểm sát đưa ra... Một khi quyền bào chữa của bị can, bị cáo không được đảm bảo thì rõ ràng là đã có sự mất đi tính cân đối, sự đối trọng cần thiết giữa chức năng "buộc tội” và chức năng"gỡ tội”. Đây là yếu tố quan trọng góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án.

1.2.Cơ sở pháp lý tranh tụng tại phiên tòa

Chủ thể thực hiện việc tranh tụng tại Toà án chủ yếu được diễn ra giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Đối với các chủ thể thuộc bên gỡ tội, bao gồm bị can, bị cáo, người bào chữa. Điều 61 BLTTHS quy định bị cáo có các quyền: được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Toà án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; quyền được tham gia phiên toà; được giải thích về quyền và nghĩa vụ...

Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền tham gia tố tụng ngay từ khi có quyết định tạm giữ.

Đối với các chủ thể của chức năng buộc tội tại phiên tòa như Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ, BLTTHS cũng quy định quyền, nghĩa vụ pháp lý cụ thể.

2. Trình tự, thủ tục tranh tụng tại phiên toà

Trong tố tụng hình sự, hoạt động tranh tụng được thể hiện rõ nét trong phiên toà sơ thẩm. Phần lớn các quan điểm khoa học hiện nay đều xác định hoạt động tranh tụng được bắt đầu ngay từ phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.

Tại phần thủ tục sau khi kiểm tra căn cước của bị cáo, công bố thành phần những người tham gia tố tụng, giải thích quyền nghĩa vụ của bị cáo, chủ toạ phiên toà phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem có ai đề nghị triệu tập thêm người làm chứng hoặc đề nghị đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét hay không.

Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt thì chủ toạ phiên toà cũng phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên toà hay không. Nếu có người yêu cầu hoãn phiên tòa thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định về việc có hoãn phiên tòa hay tiếp tục xét xử thì phải căn cứ vào nội dung của vụ án.

Như vậy, việc các bên đưa ra yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, hoặc đưa ra vật chứng, tài liệu mới để HĐXX xem xét chính là những đảm bảo cho việc xét hỏi và là cơ sở tranh luận ở phần tiếp theo của phiên tòa. Do đó, cần phải xem quá trình tranh tụng tại phiên tòa đã được bắt đầu ngay ở phần thủ tục.

Trên thực tế, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa bắt đầu rõ nét nhất là bằng việc Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng trong phần xét hỏi tại phiên toà. Thủ tục xét hỏi: "Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định”.

Xét hỏi có thể được xem là nền tảng của việc tranh tụng. Bởi vì, thông qua xét hỏi mới có cơ sở để xác định đầy đủ các tình tiết có ý nghĩa quan trọng của vụ án. Từ đó, các chủ thể của bên buộc tội và bên gỡ tội có cơ sở để bảo vệ quan điểm lập luận của mình.

Việc xét hỏi đúng trọng tâm, cụ thể và chi tiết bao nhiêu càng củng cố cho lập luận của các chủ thể vững chắc bấy nhiêu. Quan điểm của các chủ thể tranh luận chỉ có sức thuyết phục khi nó được đặt nền móng bởi các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xét hỏi, thẩm định tại phiên tòa và sẽ thiếu tính thuyết phục nếu các chứng cứ đưa ra dựa trên "án tại hồ sơ” mà không được thẩm định công khai tại phiên tòa.

Do đó, phần tranh luận có thành công hay không thành công là phụ thuộc rất lớn vào việc xét hỏi công khai tại phiên tòa.

Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm có thể xem là giai đoạn trung tâm của quá trình tranh tụng. Bởi vì, trong phần này các bên buộc tội và gỡ tội, trước sự chứng kiến của Hội đồng xét xử công khai thực hiện chức năng của mình bằng việc đưa ra các lý lẽ và lập luận để bảo vệ quan điểm của mình.

Tiếp theo lời buộc tội của vị đại diện Viện kiểm sát là những lập luận của bên bào chữa để gỡ tội. Hội đồng xét xử cho bị cáo trình bày lời bào chữa và tập trung vào lập luận truy tố của Kiểm sát viên đã đúng người, đúng tội, đúng pháp luật chưa? Nếu chưa thì ý kiến của người bào chữa là gì?

Người bào chữa cho bị cáo còn phải xét đến các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo. Người bào chữa của bị cáo có quyền kiến nghị với Hội đồng xét xử những đặc điểm về nhân thân hoặc những tình tiết khác có lợi cho bên mình để làm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 51 của BLHS. Tiếp đó, bị cáo có quyền bổ sung cho lời bào chữa của người bào chữa.

Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền lợi cho họ được trình bày ý kiến của họ về cách giải quyết vụ án.

Việc đối đáp giữa những người tham gia tranh luận được quy định tại Điều 322 của BLTTHS có nội dung: "Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến”. Quy định mới này đã xác định rất rõ trách nhiệm đối đáp lại, tranh luận lại với bên bào chữa của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

Điều luật cũng quy định rõ: "Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận”.  Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, trong trường hợp dù được đề nghị, Kiểm sát viên vẫn không tham gia tranh luận thì hậu quả pháp lý là gì? Chế tài áp dụng như thế nào? Có nên xem việc không tham gia tranh luận, không đáp lại được lập luận của các bên tham gia tranh tụng chính là sự thừa nhận, đồng tình với lập luận của họ hay không? Đến nay chưa có một văn bản pháp luật nào quy định cụ thể về nội  dung này.

Điều 324 của BLTTHS quy định: "Sau khi những người tham gia tranh luận không trình bày gì thêm, chủ toạ phiên toà tuyên bố kết thúc tranh luận. Bị cáo được nói lời sau cùng…”. Quyền được nói lời sau cùng trước khi nghị án là một trong những bảo đảm pháp lý quan trọng để bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình, là quyền đặc thù mà pháp luật chỉ giành riêng cho bị cáo.

Khi nói lời sau cùng, Hội đồng xét xử không được đặt câu hỏi đối với bị cáo nhưng có quyền yêu cầu bị cáo không được trình bày những điểm không liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử không được hạn chế về thời gian nói lời sau cùng của bị cáo. Tuy nhiên Hội đồng xét xử cũng cần phải nhắc bị cáo phát biểu ngắn gọn và không lặp lại dài dòng những ý kiến đã được tranh luận. Qua phát biểu của bị cáo, Hội đồng xét xử có thêm "niềm tin nội tâm” để cân nhắc đối với việc giải quyết về vụ án.

Tại phần nghị án và tuyên án, Điều 326 BLTTHS đã chỉ rõ: “Hội đồng xét xử phải dựa trên cơ sở các chứng cứ và tài liệu đã được kiểm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa”. Hay nói cách khác, phán quyết của HĐXX phải dựa trên kết quả tranh luận bình đẳng giữa Kiểm sát viên, bị cáo với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa.

3. Kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ, điều khiển tranh tụng tại phiên tòa

3.1.Về nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự

Ngay sau khi được phân công giải quyết xét xử vụ án hình sự Thẩm phán phải kiểm tra đầy đủ các bút lục có trong hồ sơ, đặc biệt là kiểm tra xem bị can có bị tạm giam không, nếu bị can bị tạm giam, phải ra quyết định tạm giam theo pháp luật, đồng thời nghiên cứu tài liệu và đánh giá các chứng cứ một cách khách quan, toàn diện và thận trọng, nếu hồ sơ đủ điều kiện xét xử thì báo cáo lãnh đạo để lên kế hoạch xét xử kịp thời, đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án, không để án tồn đọng, kéo dài.

Trường hợp các chứng cứ tài liệu còn mâu thuẫn thì trao đổi ngay với Kiểm sát viên và thực hiện đúng theo quy chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng để bổ sung, khắc phục kịp thời.

Khi đưa vụ án ra xét xử phải xây dựng kế hoạch xét hỏi và dự liệu các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, trên cơ sở đó để xử lý các tình huống phù hợp với quy định của pháp luật.

3.2.Về điều khiển phiên tòa

Trước khi diễn ra phiên tòa cần phải trao đổi với Hội thẩm nhân dân để xác định các nội dung cần làm rõ trong vụ án và tạo điều kiện cho Hội thẩm nhân dân tham gia xét hỏi để phát huy được quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử.

Phải nắm vững nội dung hồ sơ vụ án và xây dựng kế hoạch xét hỏi chi tiết, xử lý các tình huống phát sinh phù hợp với pháp luật, luôn có thái độ bình tĩnh, điềm đạm, nhưng kiên quyết, phải chú ý lắng nghe các lời khai của bị cáo, của những người tham gia tố tụng, làm rõ tất cả các mâu thuẩn trong hồ sơ vụ án, để từ đó đánh giá, nhận xét về lời khai của bị cáo, của những người tham gia tố tụng và chứng cứ, lý lẽ của bên buộc tội cũng như bên bào chữa, đối chiếu với các tài liệu chứng cứ và quy định của pháp luật, để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, làm căn cứ và cơ sở pháp lý cho phán quyết trong bản án hoặc quyết định của mình thông qua kết quả tranh tụng của các bên tại phiên tòa.

Thông qua nội dung tranh tụng tại phiên tòa giúp cho Hội đồng xét xử làm rõ được sự thật khách quan của vụ án, để cân nhắc đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, để áp dụng hình phạt phù hợp, trên cơ sở đó trao đổi phân tích về pháp luật áp dụng, cùng với Hội thẩm nhân dân thảo luận và biểu quyết ra bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đạt lý, thấu tình.

Từ những kinh nghiệm nêu trên, số lượng án tôi được phân công giải quyết năm 2021 là 188 vụ, việc, tôi đã giải quyết 179 vụ việc, trong đó có 36 vụ án hình sự, không có vụ án nào bị hủy, bị sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán.

4. Kiến nghị

Đề nghị cấp có thẩm quyền, tăng cường công tác lãnh đạo, giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội về công tác tư pháp và cải cách tư pháp.

Hệ thống TAND tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, đặc biệt là văn hóa ứng xử của Thẩm phán khi điều khiển tranh tụng tại phiên tòa. Trong công tác đào tạo các chức danh tư pháp theo hướng đáp ứng yêu cầu tranh tụng tại phiên tòa.

TANDTC nên tăng cường đầu tư đảm bảo cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ phù hợp với những người tiến hành tố tụng.

Rất mong quý đồng nghiệp trong cả nước thông qua Tạp chí Tòa án nhân dân Online, chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, để cùng nâng cao năng lực và chất lượng xét xử.

 

Tòa án nhân dân TP Vũng Tàu (BR-VT) xét xử vụ án trộm cắp tài sản - Ảnh: Nguyễn Quốc Tuấn

LÊ XUÂN VINH (Thẩm phán TAND huyện Ngọc Lặc, Thanh Hóa)