L không phạm tội

Qua nghiên cứu bài viết “Nợ tiền rồi chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho con ruột có phạm tội?” của tác giả Huỳnh Minh Khánh, đăng ngày 11/10 /2022,  tôi cho rằng L không phạm tội.

Thứ nhất, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà B về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 175 BLHS 2015 là đúng quy định pháp luật.

Theo nội dung vụ án từ năm 2020 đến năm 2022, bà B có vay tiền, làm chủ đầu thảo hụi và nợ tiền của chị Ng, bà N với tổng số tiền khoảng 400 triệu đồng đến giữa năm 2022 là đến hạn trả nhưng bà B không chịu trả nên chị Ng và bà N mặc dù bà B có điều kiện trả nợ từ số tiền bán tài sản - bà B làm thủ tục chuyển quyền sang tên toàn bộ tài sản của mình cho con ruột là anh L với giá 1 tỷ đồng.

Còn đối với các khoản vay khác của bà B thì chưa có căn cứ chứng minh đã đến thời hạn trả nợ mà bà B không trả nên không đủ căn cứ truy cứu TNHS đối với bà B về các khoản vay khác. Do đó, đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà B về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” với số tiền chiếm đoạt của chị Ng và bà N là 400 triệu theo quy định tại khoản 3 Điều 175 BLHS 2015. 

Thứ hai, tác giả cho rằng L không phạm tội.

Đầu năm bà B làm thủ tục chuyển quyền sang tên toàn bộ tài sản của mình cho con ruột là anh L với giá 1 tỷ đồng, hợp đồng chuyển nhượng mua bán này là hoàn toàn hợp pháp. Vì mảnh đất này thuộc quyền sở hữu của bà B và trong các hợp đồng vay tiền thì bà B cũng không dùng để thế chấp cho các khoản vay nên việc bà B chuyển nhượng cho anh L với giá 1 tỷ là hoàn toàn hợp pháp theo sự thỏa thuận của các bên. Việc bà chuyển nhượng thấp hơn giá trị thực tế là do thỏa thuận giữa các bên chuyển nhượng và cũng không trái với quy định của pháp luật.

Theo nội dung vụ án thì thì bà B làm thủ tục chuyển quyền sang tên toàn bộ tài sản của mình cho con ruột là anh L với giá 1 tỷ đồng thì bà B có thể dùng số tiền đó để thanh toán các khoản vay nợ nhưng bà B không trả, nên bà B bị truy cứu TNHS về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” với số tiền chiếm đoạt của chị Ng và bà N là 400 triệu theo quy định tại khoản 3 Điều 175 BLHS 2015.

Trên đây là trao đổi của tác giả, rất mong nhận được phản hồi trao đổi từ bạn đọc và đồng nghiệp./.

 

Nếu bà B dùng số tiền bán nhà để thanh toán các khoản vay nợ thì không bị truy cứu TNHS - Ảnh: MH

LƯU TRUNG HUY (Tòa án quân sự Quân khu 3)