Là vụ án tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 05/8/2018 có bài "Đòi tài sản hay tranh chấp quyền sở hữu của tác giả Nguyễn Thị Hoa, với hai quan điểm đưa ra, tôi đồng ý với quan điểm thứ hai.
Tác giả cho biết về một vụ án có nội dung tóm tắt như sau: Nguyên đơn là ông Nguyễn Việt T khởi kiện, bị đơn là Công ty TNHH – MN, ông T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông T được sở hữu một nửa căn nhà 6 tầng và được sử dụng 848,5m2 đất mà Công ty TNHH – MN đang là chủ sở hữu căn nhà 6 tầng trên diện tích đất 848,5m2,với lý do là số tiền 1,5 tỷ đồng mà bà Nguyễn Thị Diệu N góp vào vốn điều lệ của Công ty TNHH MN là tiền của ông T, do ông T nộp, thể hiện bằng 5 phiếu thu tiền và thời gian nộp tiền là thời gian ông T sống chung với bà Nguyễn Thị Diệu N như vợ chồng đã có con chung.
Phía bị đơn Công ty TNHH MN do bà Nguyễn Thị Diệu N là giám đốc trình bày: Ngày 12/12/2001 bà Nguyễn Thị Diệu N với bà Nguyễn Thị Tuyết M có biên bản thỏa thuận góp vốn thành lập công ty TNHH MN với số vốn góp của mỗi người là 1,5 tỷ đồng để mua quyền sử dụng 848,5m2 đất và xây căn nhà 6 tầng trên 848,5m2 đất. Ngày 12-11-2001 Sở kế hoạch Đầu tư thành phố H cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho Công ty TNHH MN có ghi nhận danh sách thành viên góp vốn có hai người là Nguyễn Thị Diệu N và Nguyễn Thị Tuyết M, giá trị vốn góp mỗi người là 1,5 tỷ đồng chiếm 50% tổng số vốn điều lệ. Việc ông T nộp tiền là nộp giúp bà Nguyễn Thị Diệu N. Thời gian ông T nộp tiền là thời gian ông T với bà Nguyễn Thị Diệu N sống với nhau như vợ chồng (tháng 8/2003 ông T với bà N mới đăng ký kết hôn).
Tác giả cho biết, Tòa án giải quyết vụ án này đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt T và quyết định ông T được sở hữu 1/2 căn nhà 6 tầng và được quyền sử dụng chung 848,5m2 đất (trên đất có căn nhà 6 tầng) đang thuộc quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất của Công ty TNHH – MN.
Tác giả cho biết vụ đang có ý kiến khác nhau về quan hệ pháp luật của vụ án. Cụ thể là:
Có ý kiến đồng tình với Tòa án đã giải quyết vụ án và xác định là vụ án: đòi tài sản. Ý kiến khác cho rằng: Đây là vụ án tranh chấp quyền sở hữu tài sản đối với số tiền 1,5 tỷ đồng mà bà Nguyễn Thị Diệu N đứng tên góp vốn vào Công ty TNHH MN. Do đó, bị đơn phải là bà Nguyễn Thị Diệu N, còn công ty TNHH MN là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Nghiên cứu nội dung vụ án và quy định của pháp luật dân sự hiện hành của nước ta, chúng tôi có ý kiến như sau:
Trước hết cần làm rõ từ đòi và cụm từ tranh chấp để làm căn cứ xác định quan hệ pháp luật của vụ án. Theo Từ điển Tiếng Việt thì: Đòi là hỏi lấy lại cho được; Tranh chấp là giành giật cái không rõ về bên nào.
Từ việc giải thích từ ngữ của Từ điển tiếng Việt để chúng ta xác định rằng Cụm từ Đòi tài sản, áp dụng đối với trường hợp chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản hoặc chủ thể khác có quyền đối với tài sản yêu cầu Tòa án buộc người có hành vi chiếm đoạt, chiếm hữu tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền quản lý của người khởi kiện phải trả lại tài sản cho người khởi kiện.
Cụm từ: Tranh chấp quyền sở hữu tài sản, áp dụng đối với trường hợp chưa rõ tài sản tranh chấp thuộc quyền sở hữu của nguyên đơn hay thuộc quyền sở hữu của bị đơn.
Liên hệ với vụ án mà tác giả Nguyễn Thị Hoa cho biết thì thời điểm mà bà Nguyễn Thị Diệu N nộp tiền góp vốn vào Công ty TNHH MN là thời điểm bà N với ông T sống chung với nhau như vợ chồng, đã có con chung với nhau. Thời điểm này, giữa ông T với bà N có thể có tài sản riêng của ông T, có tài sản riêng của bà N và có tài sản chung của ông T với bà N.
Tuy nhiên, trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do Sở Kế hoạch – Đầu tư thành phố H cấp cho Công ty TNHH MN có xác định bà Nguyễn Thị Diệu N góp vốn với giá trị vốn góp là 1,5 tỷ đồng = 50% số vốn góp của Công ty. Việc này ông T biết nhưng không phản đối. Sau khi ông T kết hôn với bà N và sau gần 20 năm, kể từ ngày bà N góp vốn vào Công ty TNHH, ông T mới nói rằng số tiền mà bà N góp vốn vào Công ty TNHH MN là tiền thuộc quyền sở hữu của ông T. Còn bà N xác định số tiền đó là của bà N, không phải của ông T.
Như vậy là giữa ông T và bà N đang có ý kiến khác nhau về quyền sở hữu đối với số tiền mà bà N góp vốn vào Công ty TNHH MN là 1,5 tỷ đồng. Người nào cũng xác định số tiền đó thuộc sở hữu của mình. Do đó tranh chấp mà ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết là tranh chấp về quyền sở hữu tài sản đối với số tiền 1,5 tỷ đồng mà bà Nguyễn Thị Diệu N góp vốn điều lệ vào Công ty TNHH MN.
Vì số tiền đó chưa rõ thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Việt T hay thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn Thị Diệu N hay thuộc quyền sở hữu chung của ông Nguyễn Việt T với bà Nguyễn Thị Diệu N nên chúng tôi đồng tình với ý kiến cho rằng đây là vụ án tranh chấp quyền sở hữu tài sản đối với số tiền 1,5 tỷ đồng mà bà Nguyễn Thị Diệu N góp vốn điều lệ vào Công ty TNHH MN.
Tòa án giải quyết vụ án quyết định cho ông Nguyễn Việt T được sở hữu 1/2 căn nhà 6 tầng và quyền sửu dụng 848,5m2 đất thuộc quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất của Công ty TNHH MN là không đúng với Luật doanh nghiệp hiện hành, chương quy định về Công ty TNHH hai viên trở lên.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Điểm mới của Luật Đất đai năm 2024 về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất
-
Hệ thống Tòa án nhân dân “đoàn kết, trách nhiệm, kỷ cương, liêm chính, đổi mới, vượt khó, hiệu quả”, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 2025
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
-
Hội thảo khoa học "200 ngày tập kết ra Bắc tại Cà Mau - tầm nhìn chiến lược và giá trị lịch sử"
-
Khai mạc Festival “Về miền ví, giặm – Kết nối tinh hoa di sản”
Bình luận