Một số bất cập đối với hoạt động bào chữa, bảo vệ trong các vụ án hình sự về phòng, chống tham nhũng của luật sư

Sự ra đời của Luật Luật sư đã khiến hoạt động của luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư và Đoàn luật sư có bước phát triển mạnh và toàn diện hơn; vị thế luật sư được nâng lên rõ rệt. Vai trò của luật sư không chỉ dừng lại ở phạm vi tham gia tố tụng mà còn là tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác. Trong phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm tham nhũng nói riêng luật sư góp phần không nhỏ vào phát hiện tội phạm, xử lý đúng pháp luật hành vi phạm tội, giáo dục, hình thành ý thức pháp luật cho chính người phạm tội.

Đặt vấn đề

Luật sư ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội, đưọc coi như là một trong những thước đo thể hiện sự thượng tôn pháp luật, dân chủ và mức độ phát triển của một quốc gia. Ở Việt Nam, vị trí và vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của luật sư đã được ghi nhận trong luật và đã được chứng minh trong thực tiễn. Vấn đề đặt ra là vị trí, vai trò quan trọng của luật sư Việt Nam được thể hiện cụ thể như thế nào, đặc biệt là trước những vấn đề trọng đại của đất nước, điển hình như trong công cuộc phòng, chống tham nhũng - một cuộc chiến đầy cam go, quyết liệt do Đảng, nhà nước và nhân dân ta đang tiến hành. Trong bối cảnh đó, vai trò của luật sư trong việc phòng, chống tham nhũng là vô cùng quan trọng, đặc biệt là thông qua hoạt động tranh tụng trong vụ án hành sự.

1. Khái niệm và nguyên nhân phát sinh tội phạm tham nhũng hiện nay

Khái niệm: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.  

- Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái; công tác quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên còn không ít yếu kém.

Trước tác động mặt trái của cơ chế thị trường, có thể thấy rõ sự đi xuống về đạo đức, phẩm chất chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên qua đánh giá trong các văn kiện của Đảng[1] như: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức lối sống”, hoặc “một bộ phận cán bộ thoái hoá, biến chất về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, lãng phí của công, quan liêu, ức hiếp dân, gia trưởng, độc đoán”, “đáng chú ý là những biểu hiện tiêu cực này có chiều hướng phát triển làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, công chức, làm suy giảm uy tín của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ”[2].

- Chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán.

Sự nghiệp đổi mới của đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đặt ra yêu cầu hết sức quan trọng là phải xây dựng một hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật đầy đủ, từng bước hoàn thiện. Việc xây dựng thể chế pháp luật vẫn không đáp ứng được nhu cầu, chưa phản ánh và điều chỉnh kịp thời những vấn đề đang đặt ra trong quá trình phát triển.

- Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng, chống tham nhũng trong một số trường hợp chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên. Người đứng đầu trong cơ quan tổ chức chưa quan tâm đúng mức, tình trạng tham nhũng kéo dài, cá biệt tham gia phạm tội có cả hệ thống, nhất là trong lĩnh vực ngân hàng hoặc liên quan ngân hàng.

Những năm qua, công tác ngăn ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng tuy đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều vụ án tham nhũng lớn đã được phát hiện và đưa ra xét xử nghiêm minh, tạo nên sự tin tưởng của nhân dân. Tuy nhiên, dư luận vẫn băn khoăn đối với một số vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng như: Vụ án Hứa Thị Phấn tại Ngân hàng Đại Tín (TrustBank); Vụ án Huỳnh Công Thiện tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV); Vụ án Trịnh Xuân Thanh tại Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC) và Công ty Cổ phần Bất động sản Điện lực dầu khí Việt Nam (PVP Land)…

2. Sự tham gia của luật sư trong phòng, chống tham nhũng thông qua hình thức bào chữa

Phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, được tiến hành mạnh mẽ, kiên quyết, kiên trì, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ; lấy phòng ngừa là cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách, đột phá; kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa, phát hiện, xử lý và sử dụng đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự. Gắn phòng, chống tham nhũng với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiểm soát quyền lực nhà nước, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, củng cố niềm tin của Nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc[3].

Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (người bị buộc tội trong các vụ án tham nhũng) hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự[4], hoạt động chứng minh của luật sư được thực hiện trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của BLTTHS.  

Thông qua hoạt động bào chữa, luật sư chứng minh làm rõ các nội dung sau đây: Một là, góp phần bảo vệ công lý[5], theo đó luật sư phải chú trọng nguyên tắc suy đoán vô tội để thực hiện quyền bào chữa của mình. Những quy định của nguyên tắc cho thấy: (i) Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; (ii) Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội, người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh nhưng có quyền đưa ra chứng cứ và các yêu cầu chứng minh họ không phạm tội hoặc có những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; (iii) Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.

Việc chứng minh thân chủ của mình phạm tội trong quá trình bào chữa từ giai đoạn điều tra đến khi xét xử chính là sự thừa nhận luận cứ và luận chứng trong kết luận điều tra của Cơ quan điều tra, trong bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Ngoài thừa nhận thân chủ phạm tội về tham nhũng, luật sư còn thu thập thêm chứng cứ, tài liệu liên quan đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đồng thuận thừa nhận tình tiết tăng nặng như cáo trạng đã truy tố. Tác giả dẫn chứng kết quả bào chữa trong các vụ án như sau:

Trong vụ án Trương Mỹ Lan và các đồng phạm, luật sư bào chữa cho bị cáo Uông Văn Ngọc Ẩn, cựu Tổng Giám đốc, Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB), thống nhất với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Luật sư cũng kiến nghị xin HĐXX xem xét bản thân bị cáo Ẩn cũng là người làm công ăn lương, trong quá trình làm việc có những áp lực nhất định mới dẫn đến sai phạm, bị cáo đã chủ động xin nghỉ việc khi nhận thấy có những dấu hiệu làm sai quy định tại SCB. Luật sư bào chữa cho bị cáo Khổng Minh Thế, cựu phó giám đốc Khối phê duyệt tín dụng SCB đề nghị xem xét bị cáo Thế có một giai đoạn nghỉ việc tại SCB sau đó mới làm trở lại. Các hành vi sai phạm mà bị cáo thực hiện phần lớn xảy ra trước năm 2018. Do đó, luật sư đề nghị xem xét theo nguyên tắc có lợi nhất cho thân chủ của mình chỉ phạm tội theo Điều 179 BLHS 2009, vai trò của bị cáo trong quy trình cho vay cũng chỉ mang tính tham mưu chứ không có tính quyết định. Các luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Dũng, phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP HCM không tranh luận về tội danh nhưng cho rằng mức hình phạt đề nghị đối với bị cáo Dũng là quá nặng, bị cáo Dũng chỉ mang tính lỗi cố ý gián tiếp, việc nhận tiền quà thực chất chỉ là những khoản quà tết chứ không phải là nguyên nhân trực tiếp để bị cáo cố tình làm sai.

Trong vụ án tại AIC (Công ty TNHH Tin học Điện tử công trình tiên tiến), người bào chữa cho bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn không có chứng cứ chứng minh thân chủ vô tội, bởi tại phiên tòa, các bị cáo khác đều đã nhận tội. Trong quá trình tiến hành vụ án, cơ quan tố tụng đã đưa ra được những bằng chứng, tài liệu, chứng minh cho hành vi thông thầu, gian lận trong đấu thầu của bà Nhàn, như “Quy trình 70 bước”. Tuy nhiên, luật sư cũng nêu ra quan điểm cần tranh luận trước cáo buộc bà Nhàn liên quan đến quá trình thực hiện, tổ chức đấu thầu, trúng thầu. Theo luật sư, vai trò của Chủ tịch Công ty AIC đối với cáo buộc trên chưa được thể hiện rõ trong kết luận điều tra và trong phiên tòa. Công ty AIC hoạt động đa ngành nghề, có tới hơn 100 danh mục kinh doanh, do đó, bà Nhàn sẽ phải xử lý khối lượng công việc lớn; đối với những đầu việc, nhiệm vụ liên quan đến mua sắm thiết bị cho Dự án xây dựng Bệnh viện Đồng Nai, bà Nhàn đã ủy quyền cho Phó Tổng giám đốc Hoàng Thị Thúy Nga thực hiện. Theo luật sư, việc ủy quyền được thể hiện trong giấy ủy quyền, đảm bảo tính pháp lý; luật sư Nghị đề nghị HĐXX cân nhắc, đánh giá vai trò của bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn trong vụ án. Dẫn chứng cho quan điểm này, luật sư bào chữa cho Chủ tịch AIC trích dẫn 4 bút lục, lời khai của các cựu nhân viên AIC, thể hiện việc trong dự án, người chỉ đạo họ là bà Nga chứ không phải bà Nhàn. Trước khi kết thúc phần tranh luận, người bào chữa cho Chủ tịch AIC nói thân chủ mình có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có nhiều đóng góp cho xã hội và được trao tặng nhiều bằng khen. Vì vậy, luật sư đề nghị HĐXX xem xét các yếu tố trên để giảm nhẹ hình phạt.

Trong quá trình bào chữa, luật sư đưa ra quan điểm của mình, tranh luận với Viện Kiểm sát, bảo vệ quan điểm trước HĐXX về tội danh, về hình phạt và các nội dung khác liên quan đến vụ án đã thể hiện vai trò tuyên truyền, phổ biến pháp luật, cung cấp kiến thức cơ bản về pháp luật, hình thành ý thức pháp luật trong Nhân dân.

Đối với các vụ án tham nhũng, chủ trương, chính sách của Đảng là kiên quyết ngăn chặn và đẩy lùi. Những tranh luận để áp dụng đúng pháp luật, đường lối xử lý nhân văn trong pháp luật hình sự của nước ta có ý nghĩa giáo dục người phạm tội, buộc họ hiểu đúng hơn về trách nhiệm của mình trong khi thi hành công vụ, đồng thời răn đe người khác phạm tội.

3. Một số hạn chế, vướng mắc, khó khăn khi Luật sư thực hiện vai trò phòng, chống tham nhũng trong các vụ án hình sự liên quan đến các loại tội phạm tham nhũng

Thứ nhất, đối tượng được đào tạo nghề luật sư chưa đồng đều về kiến thức nền. Học viên học chương trình đào tạo nghề luật sư bắt buộc phải có bằng cử nhân luật, đây chính là kiến thức nền cốt lõi mà học viên nào phải có. Tuy nhiên, học viên từ nhiều vùng miền, được đào tạo ngành luật tại các trường không chuyên về luật, đồng thời học ở các hệ khác nhau, từ chính quy tập trung, liên thông hoặc vừa làm, vừa học đã đưa đến kiến thức nền của học viên không giống nhau.

Thứ hai, quy định của Luật Luật sư và Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư về vai trò của luật sư trong phòng chống tội phạm nói chung, phòng chống tham nhũng nói riêng làm cho tính chủ động trong phòng, chống không rõ ràng. Luật sư có sứ mệnh bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan, bảo vệ sự độc lập của tư pháp, góp phần bảo vệ công lý, công bằng, phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa[6]. Luật sư không có nghĩa vụ như Điều tra viên, Kiểm sát viên hoặc Thẩm phán, vì thế vai trò “chống tội phạm” bị mờ nhạt, vai trò phòng ngừa chủ yếu thông qua chức năng xã hội như: tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tư vấn pháp lý... Đồng thời Luật sư cũng bị giới hạn về quyền hạn trong quá trình điều tra và tố tụng, họ chỉ được phép tham gia vào một số giai đoạn tố tụng mà thân chủ của họ bị điều tra, truy tố, xét xử. Điều này khiến họ khó có thể hỗ trợ trong việc phát hiện và ngăn ngừa các hành vi tham nhũng ngay từ giai đoạn đầu.

Chức năng phòng ngừa xã hội chưa đồng đều trong bộ phận luật sư, chủ yếu là trợ giúp pháp lý khi có yêu cầu. Bên cạnh đó, hoạt động của luật sư phát sinh bởi hợp đồng dịch vụ (trừ trường hợp luật sư bào chữa theo chỉ định) và được trả tiền từ hoạt động dịch vụ. Luật sư sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng[7].

Như vậy, sự tồn tại của nghề luật sư phụ thuộc vào tiền công từ thực hiện dịch vụ, và cứ vậy luật sư phải bảo vệ cho khách hàng của mình, bằng cách tìm đến những gì là chứng cứ, tình tiết có lợi cho khách hàng. Trong một số các vụ án tham nhũng, một số thân chủ có thể yêu cầu luật sư bảo vệ quyền lợi của họ bằng mọi giá, kể cả khi thân chủ đó có hành vi sai trái, vi phạm pháp luật. Luật sư sẽ phải đối mặt với tình huống khó xử khi cần phải cân nhắc giữa việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của thân chủ và đạo đức nghề nghiệp. Việc này có thể tạo ra căng thẳng trong công việc của luật sư. Do đó mà yếu tố phòng, chống tham nhũng của luật sư cũng bị lu mờ.

Thứ ba, quy định tại khoản 3 Điều 19 BLHS năm 2015 về không tố giác tội phạm[8], nếu không tố giác tội phạm về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, hoặc tội phạm khác đặc biệt nghiêm trọng trong quá trình thực hiện việc bào chữa mà biết rõ người do chính mình bào chữa đang chuẩn bị phạm tội, đang thực hiện tội phạm hoặc đã thực hiện tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định này đã buộc luật sư vừa phải tuân theo pháp luật là tố giác, vừa đắn đo, suy tính về tình người, lựa chọn cách nào để không vướng vào vòng xoay pháp luật và cũng không làm “mất đi niềm tin” hay không bị đánh giá là “kẻ phản bội” của người mà luật sư đang gây dựng niền tin cho việc khai báo sự thật về vụ án. 

Thứ tư, tình trạng một số luật sư nhận bào chữa hoặc bảo vệ cho khách hàng trong vụ án tham nhũng nhưng không có mặt trực tiếp tại phiên tòa xét xử và được khách hàng đồng ý (do tính chất phức tạp của vụ án, xét xử nhiều ngày hoặc vì lý do khác), chỉ gửi bản bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng. Mặc dù HĐXX chấp nhận hình thức này, nhưng dưới góc độ nghề nghiệp, chất lượng bào chữa giảm sút do khi có những tình tiết mới tại phiên tòa, làm thay đổi nội dung mà mình nhận bào chữa hay bảo vệ quyền lợi. Vì sự không có mặt trực tiếp nên luật sư không dự liệu trước tình huống để xử lý, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của khách hàng.

4. Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hiệu quả hoạt động trong phòng, chống tham nhũng của luật sư

- Bổ sung hoàn thiện vào Luật Luật sư về vị trí, vai trò của luật sư trong phòng, chống tham nhũng.

Trong các văn bản pháp luật nêu trên có thể bổ sung vị trí, vai trò của luật sư trong việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp phòng ngừa tham nhũng, xác minh vụ việc tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng như các thành viên khác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạo nghề luật sư, cần xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí tuyển sinh đầu vào đối với các lớp đào tạo nghề luật sư để tăng chất lượng. Đây có thể là giải pháp mà Học viện Tư pháp phải tính toán kỹ lưỡng giữa đào tạo “sản phẩm tri thức” cho xã hội, phục vụ xã hội và thu nhập, bổ sung vào quỹ tích lũy cho Học viện. Nếu chỉ xem xét đến số lượng học viên đầu vào càng nhiều và cứ thế sẽ có bấy nhiêu đầu ra thì có lẽ chưa phải là giải pháp hữu ích. Nếu kết hợp cả hai khía cạnh, vừa tuyển đầu vào chặt chẽ đối với học viên có kiến thức nền (loại văn bằng, cơ sở đào tạo, hình thức đào tạo…) với việc sàng lọc qua các kỳ thi, kiểm tra thì chất lượng “sản phẩm đầu ra” sẽ tốt hơn, xã hội sẽ đón nhận những luật sư có trình độ hơn.

- Liên đoàn luật sư và các đoàn luật sư có trách nhiệm quan trọng trong xây dựng và duy trì các chuẩn mực đạo đức, quy tắc nghề nghiệp luật sư, bảo đảm tính độc lập và chất lượng dịch vụ pháp lý của nghề luật sư, định kỳ tổ chức tập huấn chuyên đề, tập huấn chuyên sâu để “chỉnh đốn” những sai sót trong hành nghề của luật sư, nhất là vi phạm các chuẩn mực của quy tắc nghề nghiệp, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, uy tín của hệ thống đào tạo và hành nghề luật. Hằng năm Liên đoàn, các đoàn luật sư phối hợp với Học viện Tư pháp mở diễn đàn đối thoại nhằm rút kinh nghiệm trong đào tạo nghề và hành nghề.

- Ngoài ra, bổn phận mỗi luật sư cần nhận thức rõ hơn về trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp để chọn cho mình một hướng đi tốt nhất là danh dự và uy tín. Khi mà ranh giới giữa thù lao dịch vụ và trách nhiệm theo hợp đồng dịch vụ pháp lý chi phối tư tưởng, toan tính hơn thiệt, thì luật sư cần chọn cho mình con đường đi tới danh dự và uy tín. Đối với những vụ việc không có tiền thù lao, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý bằng trách nhiệm nghề nghiệp. Do đó, cần bổ sung vào Quy tắc 03 Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp với tinh thần đối với những vụ việc không có tiền thù lao, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý bằng sự tận tâm, vô tư và trách nhiệm nghề nghiệp, coi bảo vệ khách hàng như bảo vệ cho chính mình, người thân thích của mình.

Kết luận

Tóm lại, thực tiễn cho thấy việc tham gia của luật sư trong vụ án hình sự có ý nghĩa rất quan trọng bởi hoạt động này không chỉ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân… mà còn góp phần không nhỏ vào phát hiện tội phạm, xử lý đúng pháp luật hành vi phạm tội; giáo dục, hình thành ý thức pháp luật cho chính người phạm tội, người liên quan, người dự phiên toà… nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy đội ngũ luật sư ngày nay càng phải ý thức được vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng khi tham gia giải quyết vụ án hình sự để xứng đáng với sứ mệnh cao cả, thiêng liêng của nghề luật sư.

ThS. PHẠM LIẾN (Giảng viên HVTP cơ sở tại TP. Hồ Chí Minh)

Tài liệu tham khảo

1. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, tháng 6 năm 1996; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

2. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

4. Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012.

5. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, năm 2015.

6. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

7. Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng luật sư toàn quốc).

8. Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam (Ban hành kèm theo Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày 20/7/2011 của Hội đng luật sư toàn quốc).

9. Nghị quyết số 168/NQ-CP ngày 11/10/2023 của Chính phủ Ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đến năm 2030.

10. Nghị định số 47/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp.                         


[1] Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, tháng 6 năm 1996.

[2] Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.

[3] Xem Nghị quyết 168/NQ-CP ngày 11/10/2023 của Chính phủ Ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đến năm 2030.

[4] Xem Điều 3, 22 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012).

[5] Công lý là một khái niệm có nội hàm rộng và trừu tượng, có thể hiểu công lý là công bằng, đạo đức, pháp luật. Xét từ góc độ pháp lý, công lý tồn tại độc lập và song song với pháp luật. Nếu như pháp luật hình thành và phát triển để tạo chỗ đứng cho công lý thì công lý là thước đo giá trị cho hệ thống pháp luật.

[6] Xem Quy tắc 1, Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp.

[7] Xem: Quy tắc 4, Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp.

[8] Xem: BLHS năm 2015.

Ảnh minh hoạ - Nguồn: Internet.