Nguyễn Trọng H, Trần Bảo N, Nguyễn Mạnh V phạm tội gì?

Nguyễn Trọng H, Nguyễn Mạnh V và Trần Bảo N đứng xem đánh bạc thì thấy Nguyễn Văn T lấy tiền ra đánh tiếp. N nói với H: “mày giật tiền tao cản, tí nữa chia đôi”, H giật số tiền trên tay T và bỏ chạy. T đuổi theo thì bắt được H. Trong lúc H và T đang giằng co nhau thì V, N lao vào ôm T làm T ngã xuống đất để H cầm tiền chạy thoát. Hiện đang có nhiều quan điểm về định tội danh đối với Nguyễn Trọng H, Trần Bảo N, Nguyễn Mạnh V.

Nguyễn Trọng H, Nguyễn Mạnh V và Trần Bảo N đứng xem đánh bạc thì thấy Nguyễn Văn T lấy tiền ra đánh tiếp. N nói với H: “mày giật tiền tao cản, tí nữa chia đôi”, H giật số tiền trên tay T và bỏ chạy. T đuổi theo thì bắt được H. Trong lúc H và T đang giằng co nhau thì V, N lao vào ôm T làm T ngã xuống đất để H cầm tiền chạy thoát. Hiện đang có nhiều quan điểm về định tội danh đối với Nguyễn Trọng H, Trần Bảo N, Nguyễn Mạnh V.

Khoảng 15 giờ 00 ngày 15/3/2024, Nguyễn Trọng H, Nguyễn Mạnh V và Trần Bảo N đứng xem Nguyễn Hồng Q và Nguyễn Văn T cùng đồng bọn đánh bạc tại bờ suối khu V, thị trấn M, huyện D. Khoảng 30 phút sau, thấy Nguyễn Văn T lấy số tiền 2.300.000 đồng (là tiền của mẹ T đưa cho T đi trả nợ và mua xe đạp cho em gái) ra đánh tiếp. Thấy vậy, Trần Bảo N nói với Nguyễn Trọng H “mày giật tiền tao cản, tí nữa chia đôi”. Ngay sau đó, H giật số tiền trên tay T và bỏ chạy. T hô "cướp, cướp" và đuổi theo khoảng 10m thì bắt được H. Trong lúc H và T đang giằng co nhau thì V, N lao vào ôm T làm T ngã xuống đất để H cầm tiền chạy thoát. Sau đó, H đã đưa toàn bộ số tiền này cho N, N đưa lại cho H 500.000 đồng, đưa cho V 400.000 đồng, số còn lại N cầm. Ngày 20/4/2024, H, V và N đến Công an huyện D đầu thú.

Vụ án này có 03 quan điểm về tội danh đối với Nguyễn Trọng H, Trần Bảo N, Nguyễn Mạnh V như sau:

Quan điểm thứ nhất: Nguyễn Trọng H, Trần Bảo N, Nguyễn Mạnh V phạm tội "Cướp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 168 BLHS, bởi lẽ:

Trong lúc đứng xem đánh bạc, thấy con bạc T cầm trên tay 2.300.000 đồng, N, H, V đã bàn bạc giật số tiền trên tay T để chia nhau. H đã tiếp nhận ý chí đó và thực hiện hành vi giật tiền trên tay T rồi nhanh chóng bỏ chạy. Sau đó, H bị T đuổi theo bắt được thì N và V đã lao vào ôm T, làm T ngã xuống đất để H cầm tiền chạy. Như vậy, ban đầu, hành vi của H là nhanh chóng giật số tiền trên tay T và bỏ chạy, không hề dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực với T nhằm chiếm đoạt được tài sản. Nếu hành vi chỉ dừng lại ở đó thì chỉ phạm tội “cướp giật tài sản” bởi hành vi phạm tội chỉ xâm phạm một khách thể duy nhất là xâm phạm đến quan hệ tài sản. Tuy nhiên, sau khi giật tiền, H bị T đuổi và bắt được thì H đã có hành vi “giằng co” với T để cố gắng giữ lại tài sản đã cướp được, lúc này mục đích của H giằng co với T không chỉ để tẩu thoát mà còn cố tình chiếm đoạt tài sản đến cùng. Đồng thời N và V cũng lao vào ôm T khiến T ngã với mục đích để H cầm tiền chạy. Như vậy, hành vi này đã xâm phạm đồng thời hai khách thể là quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân, do đó đã có sự chuyển hóa tội phạm từ tội “Cướp giật tài sản” sang tội “Cướp tài sản”.

Quan điểm thứ hai: Nguyễn Trọng H, Trần Bảo N, Nguyễn Mạnh V phạm tội "Cướp giật tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 171 BLHS, vì:

Trong lúc đứng xem đánh bạc, thấy T cầm trên tay 2.300.000 đồng, N, H đã bàn bạc giật số tiền trên tay T để chia nhau. H đã tiếp nhận ý chí đó, trực tiếp giật tiền trên tay T rồi nhanh chóng bỏ chạy, khi bị T đuổi theo bắt được thì N và V đã lao vào ôm giữ T để H cầm tiền chạy. Như vậy, các bị cáo không dùng vũ lực hoặc uy hiếp về tinh thần nào khác đối với T, hành vi của các bị cáo chỉ xâm phạm một khách thể duy nhất là quan hệ tài sản. Do đó, trong vụ án trên, H, N và V phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 BLHS mới đúng người, đúng tội.

Quan điểm thứ ba cũng là quan điểm của tác giả: Nguyễn Trọng H, Trần Bảo N, Nguyễn Mạnh V phạm tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung “hành hung để tẩu thoát” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 171 BLHS, bởi lẽ:

Theo tinh thần của Thông tư số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 26/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật Hình sự năm 1999 tại mục 6 hướng dẫn tình tiết “hành hung để tẩu thoát” (theo điểm đ khoản 2 Điều 136điểm a khoản 2 Điều 137điểm đ khoản 2 Điều 138 BLHS 1999) như sau:

“6.1. Phạm tội thuộc trường hợp “hành hung để tẩu thoát” là trường hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh, chém, bắn, xô ngã... nhằm tẩu thoát”.

Đối chiếu với vụ án này, trong lúc thực hiện hành vi chiếm đoạt, các bị cáo không dùng bạo lực hoặc uy hiếp về tinh thần nào khác đối với Nguyễn Văn T. Nhưng sau khi Nguyễn Trọng H cướp giật được tiền và bỏ chạy, người bị hại đuổi theo túm được, ngay lúc đó Trần Bảo N và Nguyễn Mạnh V lao vào ôm cổ, ôm người và xô ngã bị hại để Nguyễn Trọng H cầm tiền chạy thoát, đây là trường hợp “hành hung để tẩu thoát” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 171 BLHS. Do đó, cần truy cứu trách nhiệm hình sự đối với H, N, V về tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung “hành hung để tẩu thoát” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 171 BLHS.

Trên đây là quan điểm cá nhân về tội danh của Nguyễn Trọng H, Trần Bảo N, Nguyễn Mạnh V. Rất mong nhận được ý kiến trao đổi của các đồng nghiệp về tội danh của các bị cáo trong vụ án này.

HOÀNG THỊ THU PHƯƠNG (TAQS Khu vực Quân khu 3)

Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xét xử vụ án cướp giật tài sản - Ảnh: Hữu Toàn.