.jpg)
Cần thụ lý, giải quyết vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất
Sau khi nghiên cứu bài viết “có đình chỉ giải quyết vụ án dân sự do sự việc đã được giải quyết bằng bản án hành chính có hiệu lực pháp luật hay không” của tác giả Vi Nhật Hoàng được Tạp chí TAND đăng ngày 14/02/2025, người viết đồng ý với một phần của quan điểm thứ nhất TAND huyện V, tỉnh K cần thụ lý, giải quyết vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất và căn cứ vào kết quả giải quyết của 02 (hai) Bản án hành chính sơ thẩm, phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật nếu hai bản án phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ vụ án dân sự, kết quả tranh tụng tại phiên toà để tuyên xử theo hướng không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Trần Thị T và có một số ý kiến bổ sung cho quan điểm này.
Thứ nhất, cần làm rõ rằng hai yêu cầu khởi kiện, đối tượng và phạm vi giải quyết trong hai vụ án hành chính và dân sự là khác nhau. Cụ thể:
Ngày 13/3/2019, bà Trần Thị T có đơn khởi kiện Ủy ban nhân dân huyện V để yêu cầu TAND tỉnh K hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 479922, số vào sổ cấp GCN CH 12595 cấp ngày 17/5/2018 đối với thửa đất số 42, tờ bản đồ số 36 - Bản đồ địa chính VN-2000 (là các thửa đất số 339, 340, 341, 342, 343, 344, 345, 350, 351, 346, 347, tờ bản đồ số 30 - Bản đồ địa chính năm 1996) do Ủy ban nhân dân huyện V cấp cho ông Nguyễn B, bà Trần Thị T1. Đây là yêu cầu khởi kiện đối với quyết định hành chính cá biệt của Uỷ ban nhân dân.
Ngày 19/11/2021, bà Trần Thị T khởi kiện “Tranh chấp quyền sử dụng đất” với ông Nguyễn B, bà Trần Thị T1 đối với thửa đất số 42, tờ bản đồ số 36 - Bản đồ địa chính VN-2000 (là các thửa đất số 339, 340, 341, 342, 343, 344, 345, 350, 351, 346, 347, tờ bản đồ số 30 - Bản đồ địa chính năm 1996) mà Ủy ban nhân dân huyện V đã cấp cho ông Nguyễn B, bà Trần Thị T1 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 479922, số vào sổ cấp GCN CH 12595 cấp ngày 17/5/2018. Đây là vụ kiện thuộc lĩnh vực dân sự (tranh chấp quyền sử dụng đất giữa các cá nhân) theo quy định tại khoản 1 Điều 11 BLDS 2015. Cụ thể là yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất tranh chấp trên cho người khởi kiện, yêu cầu xác lập quyền đối với quyền sử dụng các thửa đất nêu trên.
Vụ án hành chính và vụ án dân sự là hai loại tranh chấp khác nhau, có đối tượng và phạm vi giải quyết khác nhau.
Theo quy định của Điều 191 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì trong vụ án hành chính HĐXX sẽ xem xét những vấn đề sau:
- Tính hợp pháp và có căn cứ về hình thức, nội dung của quyết định hành chính hoặc việc thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện;
- Tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính hoặc việc thực hiện hành vi hành chính;
- Thời hiệu, thời hạn ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính;
- Mối liên hệ giữa quyết định hành chính, hành vi hành chính với quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và những người có liên quan;
- Tính hợp pháp và có căn cứ của văn bản hành chính có liên quan (nếu có);
- Vấn đề bồi thường thiệt hại và vấn đề khác (nếu có).
Trong khi đó vụ án dân sự giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa các bên. Hội đồng xét xử sẽ xem xét các vấn đề liên quan đến: nguồn gốc đất, quá trình khai thác, sử dụng đất và thực hiện các nghĩa vụ liên quan đến quyền sử dụng đất, hiện trạng phần đất tranh chấp, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… để xác định ai là người có quyền sử dụng đất. Khi giải quyết vụ án dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết, không phụ thuộc vào yêu cầu khởi kiện của đương sự.
Trong trường hợp này, mặc dù vụ việc hành chính đã được giải quyết trước đó và vụ việc dân sự đang khởi kiện có liên quan đến nhau, nhưng đây là hai yêu cầu khởi kiện khác nhau, với phạm vi giải quyết cũng khác nhau. Mặc dù cả hai vụ án đều liên quan đến cùng một thửa đất, nhưng quan hệ pháp luật trong từng vụ án là khác nhau, các đương sự cũng khác nhau. Cụ thể, bản án hành chính giải quyết yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà người khởi kiện cho rằng xâm phạm đến quyền lợi của họ, khác với yêu cầu khởi kiện dân sự về tranh chấp quyền sử dụng đất nhằm xác định chủ thể nào có quyền đối với quyền sử dụng đất đang tranh chấp. Vì vậy, hai vụ án này không thể coi là cùng một sự việc đã được giải quyết.
Thứ hai, theo tinh thần của Giải đáp số 02/GĐ-TA ngày 19/9/2018 thì đối với trường hợp đương sự vừa có yêu cầu khởi kiện huỷ giấy chứng nhận trong vụ án hành chính, vừa có yêu cầu khởi kiện tranh chấp đất đai thì xử lý như sau: “3. Ban đầu người khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án đã thụ lý vụ án hành chính; sau đó, người khởi kiện bổ sung yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai có liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đối tượng khởi kiện ban đầu. Tòa án xử lý trường hợp này như thế nào?
Trong trường hợp này, Tòa án phải hướng dẫn đương sự rút đơn khởi kiện vụ án hành chính để khởi kiện vụ án dân sự. Trường hợp đương sự rút đơn khởi kiện vụ án hành chính, đồng thời có đơn khởi kiện vụ án dân sự tranh chấp về đất đai thì Tòa án căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 143 của Luật Tố tụng hành chính để đình chỉ giải quyết vụ án hành chính và xem xét, thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục chung. Trường hợp đương sự không rút đơn khởi kiện thì Tòa án căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 141 của Luật Tố tụng hành chính tạm đình chỉ giải quyết vụ án để chờ kết quả giải quyết vụ án dân sự. Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết tranh chấp đất đai và giải quyết yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất liên quan đến nhau và có thể giải quyết trong cùng một vụ án thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào khoản 1 Điều 34 của Luật Tố tụng hành chính và Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự để giải quyết đồng thời hai yêu cầu của đương sự trong cùng một vụ án theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng dân sự quy định”.
Có thể thấy rõ ràng, theo như hướng dẫn này thì yêu cầu huỷ GCN và yêu cầu giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là hai yêu cầu khác nhau (dù việc giải quyết tranh chấp đất đai dẫn đến hệ quả huỷ hoặc không huỷ GCN) và nếu xét thấy việc giải quyết hai yêu cầu này có liên quan đến nhau thì Tòa án tiến hành nhập vụ án để giải quyết theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng dân sự quy định.
Vì xác định là hai yêu cầu khởi kiện khác nhau nên yêu cầu khởi kiện huỷ GCN trong vụ án hành chính trước đó nếu đã giải quyết thì cũng mới chỉ giải quyết yêu cầu huỷ GCN (xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính) còn yêu cầu tranh chấp quyền sử dụng đất của người khởi kiện (xác định ai là chủ thể có quyền đối với quyền sử dụng đất đang tranh chấp) thì chưa được giải quyết.
Bản án hành chính chỉ giải quyết đối với yêu cầu xem xét về tính hợp pháp của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không giải quyết đối với yêu cầu tranh chấp đất đai.
Đồng thời, người viết cho rằng việc trả lại đơn khởi kiện theo điểm c khoản 1 Điều 192 chỉ đặt ra khi vụ việc khởi kiện trước đó có cùng đương sự, cùng quan hệ pháp luật và cùng yêu cầu khởi kiện.
Vì vậy, vụ án dân sự vẫn phải được xem xét, thụ lý theo quy định của BLTTDS 2015. Việc vận dụng căn cứ tại Điều 192 BLTTDS 2015 để trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ vụ án sau khi thụ lý là chưa phù hợp lý luận và thực tiễn.
Thứ ba, sau khi thụ lý vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất, căn cứ trên những vấn đề phải làm rõ trong vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất như người viết đã phân tích ở mục trên, HĐXX vụ án dân sự sẽ căn cứ toàn bộ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đối chiếu với kết quả của hai bản án sơ thẩm, phúc thẩm trong vụ án hành chính đã có hiệu lực pháp luật để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của đương sự. Bởi theo quy định của BLTTDS 2015 thì khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử vụ án dân sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Trong khi đó, pháp luật tố tụng dân sự tại Điều 266 BLTTDS 2015 quy định Tòa án phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa để phân tích, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách quan về các tình tiết của vụ án, những căn cứ pháp luật, nếu vụ án thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 BLTTDS 2015 thì còn phải căn cứ vào tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng, để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và giải quyết các vấn đề khác có liên quan.
Trên đây là quan điểm của người viết đối với bài viết của tác giả Vi Nhật Hoàng. Rất mong nhận được ý kiến góp ý, trao đổi từ các độc giả.
Tòa án nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai xét xử vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Về bài viết: “Có đình chỉ giải quyết vụ án dân sự do sự việc đã được giải quyết bằng bản án hành chính đã có hiệu lực không?”
-
Vụ “thổi giá” đất 30 tỷ đồng/m2 ở Sóc Sơn: 6 bị cáo đã lĩnh án tù
-
Ngày Xuân, Cột cờ Lũng Cú cảnh đẹp mê hoặc lòng người
-
Dự kiến sẽ sáp nhập 6 - 7 nghìn đơn vị hành chính cấp xã
-
Pháp luật Trung Quốc về kiện phái sinh và kiến nghị cho Việt Nam
Bình luận