.jpg)
Quy định về bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông từ góc nhìn pháp luật dân sự
Bài viết phân tích khái quát về quy định của pháp luật dân sự hiện hành đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ việc tai nạn giao thông, đồng thời cung cấp cho người đọc nội dung quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định tại BLDS 2015.
Đặt vấn đề
Theo số liệu từ Bộ Công an, trong năm 2023, toàn quốc xảy ra 22.061 vụ tai nạn giao thông (TNGT), làm chết 11.626 người, bị thương 15.292 người[1], và chỉ trong tháng 9 năm 2024, toàn quốc đã xảy ra 1.761 vụ TNGT, làm chết 913 người, bị thương 1.238 người, so với tháng 8/2024, giảm 38 vụ (-2,11%); tăng 40 người chết (+4,58%); giảm 34 người bị thương (-2,67%)[2]. Song song với việc xử lý hình sự, cần có sự thống nhất về trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) trong các vụ TNGT để đảm bảo công bằng cho các bên liên quan.
Giao thông đường bộ giữ vai trò thiết yếu trong đời sống xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế và văn hóa. Tuy nhiên, TNGT là những sự cố bất ngờ, do một hoặc nhiều phương tiện tham gia giao thông gây ra, dẫn đến tổn thất nghiêm trọng về người và tài sản. Đây là vấn đề cực kỳ nhức nhối tại Việt Nam mỗi năm, gây ra thiệt hại nặng nề và luôn thu hút sự quan tâm của các bên liên quan về trách nhiệm BTTH. Việc xác định trách nhiệm bồi thường không chỉ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại mà còn thúc đẩy ý thức trách nhiệm của người tham gia giao thông, góp phần giảm thiểu tai nạn, bảo đảm an toàn trên đường. Bên cạnh đó, việc thiết lập quy định rõ ràng về trách nhiệm bồi thường tạo nền tảng pháp lý vững chắc, khuyến khích trách nhiệm cá nhân, và xây dựng văn hóa giao thông an toàn. Cơ chế bồi thường hiệu quả còn giúp giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, công bằng, góp phần củng cố lòng tin và duy trì sự ổn định trong xã hội.
1. Những quy định quan trọng của pháp luật dân sự hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong tai nạn giao thông
Trong bối cảnh giao thông hiện nay, mỗi người khi tham gia lưu thông đều sử dụng các phương tiện cơ giới như xe máy, ô tô, hay xe tải để di chuyển trên đường. Hầu hết các vụ TNGT đều liên quan đến các phương tiện này. Theo quy định tại Điều 601 BLDS 2015, phương tiện giao thông được xem là nguồn nguy hiểm cao độ. Do đó, khi xảy ra TNGT, các thiệt hại liên quan đến các phương tiện cơ giới sẽ chịu sự chi phối của quy định về trách nhiệm đối với nguồn nguy hiểm cao độ. Theo đó, chủ sở hữu, người chiếm hữu hoặc người sử dụng phương tiện sẽ phải chịu trách nhiệm BTTH khi xảy ra tai nạn, ngay cả khi họ không có lỗi trực tiếp. Tuy nhiên, có hai trường hợp ngoại lệ khi trách nhiệm bồi thường không được áp dụng. (i) Thứ nhất, nếu thiệt hại xảy ra do lỗi của chính người bị thiệt hại, ví dụ khi họ tự gây ra tai nạn hoặc có hành vi vi phạm quy định giao thông, họ sẽ không được yêu cầu bồi thường từ phía chủ sở hữu hoặc người sử dụng phương tiện; (ii) Thứ hai, trong trường hợp thiệt hại xảy ra do các yếu tố bất khả kháng hoặc trong tình thế cấp thiết, ví dụ như thiên tai không thể kiểm soát hoặc tình huống khẩn cấp buộc phải hành động, người điều khiển phương tiện cũng sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm BTTH của người điều khiển phương tiện giao thông trong các vụ tai nạn là yếu tố quan trọng trong hệ thống pháp luật giao thông, đảm bảo rằng các bên bị thiệt hại nhận được sự bồi thường hợp lý và công bằng cho tổn thất của họ.
Theo quy định tại Điều 584 BLDS 2015, người nào gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản, quyền lợi hợp pháp khác của người khác phải bồi thường. Trong các vụ TNGT, người gây thiệt hại phải bồi thường các tổn thất về tài sản, sức khỏe, tính mạng, và một phần tinh thần cho người bị thiệt hại. Khi bàn về việc BTTH nói chung và trách nhiệm BTTH trong TNGT nói riêng, thì điều cần thiết đầu tiên là cần phải hiểu nguyên tắc chung của BTTH theo quy định của BLDS 2015. Căn cứ theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành thì việc BTTH là phải BTTH thực tế, tức là phải bồi thường toàn bộ thiệt hại mà người bị thiệt hại đã thực sự gánh chịu. Việc BTTH phải được thực hiện kịp thời, không gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người bị thiệt hại. Người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường khi có lỗi và người gây thiệt hại phải bồi thường theo khả năng kinh tế của mình, điều này được hiểu rằng người chịu trách nhiệm BTTH có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình. Đặc biệt khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại sẽ có quyền yêu cầu thay đổi mức bồi thường. Bên có lỗi trong việc gây tai nạn sẽ không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình. Nguyên tắc BTTH trong TNGT sẽ được áp dụng đúng với nguyên tắc chung trong BTTH ngoài hợp đồng, đồng thời phản ánh đầy đủ các đặc điểm của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, cụ thể: (i) Trách nhiệm bồi thường phát sinh giữa những người chưa từng có quan hệ hợp đồng hoặc không liên quan đến quan hệ hợp đồng. Trong các vụ án giao thông, trách nhiệm bồi thường thường xuất phát từ mối quan hệ giao thông chứ không phải từ quan hệ hợp đồng giữa các bên; (ii) Là trách nhiệm tài sản, đặc biệt là đối với thiệt hại về tài sản của các bên liên quan. Các vụ TNGT thường gây ra tổn thất về tài sản, và trách nhiệm BTTH thường liên quan đến việc khắc phục hoặc đền bù cho tài sản bị hỏng hóc; (iii) Không phụ thuộc vào yếu tố lỗi. Trong một số trường hợp, trách nhiệm BTTH không nhất thiết phải dựa vào việc xác định ai là người có lỗi, mà có thể dựa trên các nguyên tắc công bằng và trách nhiệm pháp lý; (iv) Người chịu trách nhiệm bồi thường có thể không phải là người gây ra thiệt hại. Trong một số trường hợp, người chịu trách nhiệm bồi thường có thể là chủ sở hữu phương tiện, người điều khiển, hoặc các bên có liên quan khác, không nhất thiết phải là người gây ra tai nạn; (v) Nhằm khắc phục tổn thất cho người bị thiệt hại. Mục đích chính của trách nhiệm bồi thường là để đền bù hoặc khắc phục tổn thất mà người bị thiệt hại phải chịu đựng sau vụ tai nạn, bao gồm cả thiệt hại về tài sản và sức khỏe, cũng như mất mát tinh thần và tài chính.
Vấn đề thứ hai cần phải nói đến, chính là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường trong TNGT. Theo đó, căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH trong TNGT là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự xác định cẩn thận các yếu tố liên quan. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật hiện hành sẽ dựa trên ba yếu tố chính: thiệt hại thực tế, hành vi vi phạm pháp luật, và mối quan hệ nhân quả. Các vụ TNGT gây ra thiệt hại nặng nề về người và tài sản, có thể hiểu thiệt hại về tài sản là sự mất mát hoặc giảm sút về một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ. Đây có thể là việc mất mát hoặc hỏng hóc của tài sản, và thiệt hại này có thể được tính toán thành một khoản tiền cụ thể. Hoặc thiệt hại về sức khỏe và tinh thần bao gồm các tổn thất liên quan đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín và nhân phẩm. Những tổn thất này không chỉ ảnh hưởng đến khía cạnh cảm xúc như đau đớn, buồn phiền mà còn ảnh hưởng đến mặt xã hội và tâm lý của người bị thiệt hại. Đối với những tổn thất này, cần phải có một khoản tiền bồi thường để bù đắp cho những tổn thất mà họ phải chịu. Trong các vụ TNGT này cần phải có hành vi vi phạm pháp luật, có thể hiểu đơn giản chính là những hành động mà một cá nhân thực hiện mà vi phạm các quy định và luật lệ được đặt ra bởi hệ thống pháp luật. Ví dụ, khi pháp luật cấm người tham gia giao thông vượt đèn đỏ, nghiêm cấm sử dụng rượu bia khi lái xe, hoặc không được phép vượt quá tốc độ cho phép, nhưng họ vẫn thực hiện các hành vi vi phạm này thì đó là hành vi trái pháp luật. Điều này có nghĩa là nếu một người điều khiển phương tiện giao thông vi phạm quy định bằng việc vượt đèn đỏ và gây ra tai nạn, thì hành vi đó được xem là vi phạm pháp luật không tuân thủ quy định về giao thông, đóng vai trò then chốt. Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả tai nạn cũng cần được xác định rõ ràng để xác định trách nhiệm bồi thường một cách công bằng và chính xác.
Một vấn đề liên quan tiếp theo mà các bên cần phải hiểu rõ, đó là phạm vi bồi thường trong trường hợp TNGT. Các khoản bồi thường sẽ bao gồm các khoản chi phí cần thiết để phục hồi sức khỏe và hỗ trợ cho người bị hại. Có thể kể đến cụ thể như: (i) chi phí y tế bao gồm cả chi phí điều trị, vận chuyển người bị thiệt hại về sức khỏe đến cơ sở y tế, thuốc thang và các dịch vụ y tế khác; (ii) thu nhập thực tế bị mất bao gồm cả thu nhập từ công việc và các nguồn thu nhập khác mà người bị hại không thể kiếm được do tai nạn; (iii) chi phí chăm sóc cũng được xem xét, bao gồm cả chi phí và thu nhập thực tế mà người chăm sóc phải mất trong quá trình điều trị. Đồng thời, người bị hại cũng sẽ được bồi thường tổn thất tinh thần, với mức độ bồi thường được xác định theo thỏa thuận hoặc quy định tối đa không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Phạm vi bồi thường này nhằm đảm bảo quyền lợi tối đa cho người bị hại sau TNGT. Cũng cần phải lưu ý rằng, để được nhận bồi thường, người bị hại phải cung cấp bằng chứng cho việc họ đã phải chịu tổn thất và chi phí do tai nạn gây ra. Điều này có thể bao gồm các tài liệu như hồ sơ y tế, văn bản pháp lý, và các bằng chứng khác để xác minh mức độ tổn thất và chi phí mà họ đã gánh chịu.
Trong một vụ TNGT, mức độ BTTH sẽ còn tùy thuộc vào hậu quả xảy ra là gì. Căn cứ theo quy định của Điều 589 và Điều 590 của BLDS 2015. Nếu hậu quả chỉ là những thiệt hại đối với tài sản, người gây ra tai nạn sẽ phải bồi thường cho tài sản bị hủy hoại hoặc hư hỏng, cũng như các lợi ích gắn liền với việc sử dụng hoặc khai thác tài sản bị ảnh hưởng, cụ thể người có trách nhiệm bồi thường sẽ cần bồi thường giá trị thiệt hại bằng cách sửa chữa tài sản, đền bù giá trị phần thiệt hại hoặc thay thế một tài sản khác có giá trị tương đương. Phương thức bồi thường có thể thỏa thuận hoặc quy định theo luật. Tuy nhiên, đối với những hậu quả mà có thiệt hại về sức khỏe, người gây tai nạn thì mức bồi thường sẽ phụ thuộc vào việc chi trả các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, và phục hồi sức khỏe và chức năng của người bị thiệt hại. Đây có thể là các chi phí y tế được tính dựa trên biên lai thu tiền viện phí, hóa đơn thuốc điều trị và các chi phí liên quan. Nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần người thường xuyên chăm sóc, thì người gây tai nạn cũng phải chi trả các chi phí liên quan bao gồm thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút của người bị thiệt hại. Trong trường hợp thu nhập thực tế không ổn định và không thể xác định được, áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại. Để chứng minh mức thu nhập này, người bị thiệt hại có thể sử dụng các tài liệu như thang bảng lương hoặc hợp đồng lao động và chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị. Cuối cùng, hậu quả nặng nề nhất là có thiệt hại đối với tính mạng, người gây tai nạn phải chi trả các chi phí hợp lý cho việc mai táng, bao gồm các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc mai táng, chi phí thuê xe tang; các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân, cũng như tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu của họ. Đồng thời, người chịu trách nhiệm bồi thường cũng cần đền bù một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại.
Về thời hạn hưởng BTTH, căn cứ theo quy định của Điều 593 BLDS 2015, thì thời hạn này được xác định dựa trên các điều kiện cụ thể của từng trường hợp, nhằm đảm bảo quyền lợi của người bị thiệt hại và người thụ hưởng bồi thường, cụ thể: (i) Trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động: Người bị thiệt hại sẽ được hưởng bồi thường từ thời điểm mất hoàn toàn khả năng lao động cho đến khi chết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; (ii) Trường hợp người bị thiệt hại chết: Những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống sẽ được hưởng tiền cấp dưỡng từ thời điểm người có tính mạng bị xâm phạm chết trong thời hạn sau đây: (a) Đối với con của người chết: Con chưa thành niên hoặc đã thành thai nhưng còn sống sau khi sinh ra sẽ được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp con từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân. (b) Đối với người thành niên không có khả năng lao động: Sẽ được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết; (iii) Đối với con đã thành thai của người chết: Tiền cấp dưỡng sẽ được tính từ thời điểm con này sinh ra và còn sống. Đây là thời hạn BTTH do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm trong một vụ TNGT.
2. Các hạn chế trong việc thực thi quy định bồi thường thiệt hại theo pháp luật dân sự
Như những nội dung đã phân tích ở mục 1, có thể thấy hành vi gây TNGT dẫn đến hậu quả người khác bị thương hoặc tử vong sẽ buộc người có lỗi phải BTTH cho nạn nhân theo quy định pháp luật. Mức bồi thường sẽ tăng lên đáng kể trong trường hợp tai nạn gây chết người. Hai bên có quyền tự thương lượng về mức bồi thường. Tuy nhiên, nếu không đạt được thỏa thuận, pháp luật sẽ có quy định cụ thể để giải quyết vấn đề. Về mặt bản chất, việc BTTH trong các vụ án giao thông được xếp vào loại BTTH ngoài hợp đồng. Do đó, trong quá trình thực hiện các quy định liên quan đến vấn đề này, sẽ xuất hiện một số vướng mắc pháp lý chung cần được giải quyết.
Hiện tại, việc xác định mức bồi thường tổn thất tinh thần còn nhiều bất cập do thiếu các tiêu chí, thiếu các hướng dẫn cụ thể. Trong khi thiệt hại vật chất mang tính khách quan, dễ dàng nhận biết và định lượng, thì thiệt hại về tinh thần lại thiên về mặt chủ quan, trừu tượng, dẫn đến khó khăn trong việc xác định và quy đổi thành giá trị kinh tế. Điều này dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất, gây khó khăn cho việc giải quyết các vụ TNGT, theo tác giả thì rất cần xây dựng hệ thống tiêu chí rõ ràng để đánh giá mức độ tổn thất tinh thần như: (i) Mối quan hệ giữa người bị thiệt hại và người gây thiệt hại (con cái, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em ruột,...); (ii) Tuổi tác của người bị thiệt hại; (iii) Hậu quả của tai nạn (tàn phế, mất khả năng lao động,...); (iv) Ảnh hưởng tâm lý, tinh thần của người bị thiệt hại. Ngoài ra, mức bồi thường tổn thất tinh thần hiện nay được quy định là không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định trong Nghị định 24/2023/NĐ-CP được cho là chưa tương xứng với mức độ thiệt hại thực tế. Việc nâng mức bồi thường sẽ góp phần bù đắp tổn thất cho người bị hại và thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật. Trên góc độ áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì cần có hướng dẫn cụ thể để các cơ quan tố tụng và tư pháp áp dụng quy định về bồi thường tổn thất tinh thần một cách thống nhất, tránh tình trạng áp dụng pháp luật tùy tiện, gây oan sai cho các bên liên quan. Kèm theo đó cần tăng cường tập huấn cho cán bộ tư pháp về việc áp dụng quy định bồi thường tổn thất tinh thần và phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong việc giải quyết các vụ TNGT, cũng như triển khai tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của người dân về quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc bồi thường tổn thất tinh thần. Ngoài ra có thể xem xét đến việc thành lập các tổ chức chuyên tư vấn và hỗ trợ người bị hại trong việc yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần. Việc hoàn thiện quy định về bồi thường tổn thất tinh thần trong các vụ TNGT là cần thiết để đảm bảo tính công bằng, thống nhất và phù hợp với thực tế.
Vấn đề nan giải tiếp theo là việc xác định lỗi để xác định trách nhiệm trách nhiệm bồi thường. Có thể thấy rằng trong thực tế, nhiều vụ TNGT là do lỗi của cả hai bên, dẫn đến việc xác định mức độ lỗi và tỷ lệ lỗi để phân chia trách nhiệm bồi thường trở nên phức tạp và khó khăn. Mỗi vụ tai nạn có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ chủ quan đến khách quan, từ lỗi của người lái xe đến lỗi của người đi bộ, từ vi phạm luật giao thông đến sự cố kỹ thuật dẫn đến tính chất đa dạng của cá vụ tai nạn. Việc xác định lỗi của bị hại thường dựa vào các bằng chứng như lời khai của nhân chứng, camera giám sát, hiện trường vụ tai nạn. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có thể thu thập đầy đủ các bằng chứng cần thiết để xác định cụ thể lỗi của các bên. Trong một vụ TNGT, thì khi xác định lỗi của bị hại sẽ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc phân chia trách nhiệm BTTH, vì vậy, rất cần có những quy định cụ thể và rõ ràng hơn về các tiêu chí đánh giá mức độ lỗi và tỷ lệ lỗi của bị hại. Có thể xem xét áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công tác điều tra, thu thập bằng chứng để nâng cao tính chính xác và khách quan trong việc xác định lỗi của các bên liên quan. Việc giải quyết vấn đề xác định lỗi của bị hại trong TNGT cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư. Chỉ khi có sự chung tay góp sức của tất cả các bên, chúng ta mới có thể đảm bảo công bằng, chính xác trong việc phân chia trách nhiệm BTTH và góp phần giảm thiểu TNGT trong tương lai.
Kết luận
Tóm lại, bài viết đã tập trung phân tích một cách khái quát nhất về các vấn đề pháp lý liên quan đến BTTH trong TNGT. Vấn đề BTTH trong TNGT là một chủ đề phức tạp và có nhiều tranh cãi. Bài viết này đã phân tích những quy định hiện hành về trách nhiệm BTTH trong TNGT, cũng như những hạn chế và vướng mắc trong quá trình áp dụng. Có thể thấy rằng, hệ thống pháp luật hiện hành đã có những quy định tương đối đầy đủ về trách nhiệm BTTH trong TNGT. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục để đảm bảo tính công bằng và hiệu quả trong việc giải quyết các vụ TNGT. Việc BTTH trong TNGT cần được thực hiện trên nguyên tắc công bằng, đảm bảo quyền lợi của cả người bị hại và người gây thiệt hại. Cần có sự cân bằng giữa việc BTTH và việc trừng phạt người gây thiệt hại. Việc giải quyết các vụ TNGT cần được thực hiện một cách nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả. Như toàn văn nội dung bài viết đã trình bày, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về BTTH trong TNGT sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi của người bị hại, thúc đẩy người gây thiệt hại có ý thức hơn khi tham gia giao thông và góp phần giảm thiểu TNGT trong tương lai.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Dân sự năm 2020.
2. Luật Giao thông đường bộ năm 2008.
3. Trường ĐH Luật TPHCM, Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, 2022, Chương V.
4. Nguyễn Thị Phương Châm, Ngô Thu Trang, Tiến trình phát triển pháp luật về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - từ lý thuyết đến thực tiễn áp dụng, Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp bộ - Những vấn đề lý luận hiện đại về Nhà nước và pháp luật, 2020.
5. Nguyễn Hoàng Mỹ Linh, Những quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, số 86/2016.
6. Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cơ sở bán lẻ rượu bia với việc hạn chế tai nạn giao thông do sử dụng rượu bia, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 02/2020.
[1] Theo thống kê từ Bộ Công an, Tình hình tai nạn giao thông, cháy, nổ và xử lý hành chính về trật tự, an toàn giao thông năm 2023, https://bocongan.gov.vn/thong-tin-thong-ke/tinh-hinh-tai-nan-giao-thong-chay-no-va-xu-ly-hanh-chinh-ve-trat-tu-an-toan-giao-thong-nam-2023-d100-t37769.html, truy cập ngày 18/3/2025.
[2] Theo thống kê từ Bộ Công an, Tình hình tai nạn giao thông, cháy, nổ và xử lý hành chính về trật tự, an toàn giao thông tháng 9/2024, https://bocongan.gov.vn/thong-tin-thong-ke/tinh-hinh-tai-nan-giao-thong-chay-no-va-xu-ly-hanh-chinh-ve-trat-tu-an-toan-giao-thong-thang-92024-d100-t41580.html, truy cập ngày 18/3/2025.
Lực lượng Công an TP. Hồ Chí Minh khám nghiệm hiện trường một vụ TNGT - Ảnh: Mai Huyên.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Đề xuất mô hình Tòa án 3 cấp khi bỏ đơn vị hành chính cấp huyện
-
Người vay dùng tiền lừa đảo để trả nợ, người cho vay có trách nhiệm trả lại không?
-
Không áp dụng một số tình tiết giảm nhẹ đối với Tạ Tấn P
-
Trao đổi ý kiến về bài viết “bên đặt cọc hay bên nhận đặt cọc có lỗi?”
-
Một số vấn đề về dấu hiệu định tội của tội "Tổ chức đánh bạc" quy định tại điểm d, đ khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015
Bình luận