Quy định về hậu quả pháp lý trong trường hợp xảy ra hoàn cảnh thay đổi cơ bản và kiến nghị
Bài viết nêu sơ lược quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 và phân tích quy định về việc đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản; nêu ra một số khó khăn, vướng mắc khi áp dụng vào thực tiễn xét xử và đề xuất, kiến nghị.
1. Quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Hiệu lực của hợp đồng không phải là hoàn toàn bất biến, bởi vì việc thực hiện hợp đồng “ngày càng mang tính chất của một quá trình” và “hàm chứa nhiều loại rủi ro”[1]. Nhất là trong các hợp đồng quốc tế dài hạn, các bên thường đối mặt với những rủi ro bất thường từ thiên nhiên, xã hội, kinh tế, chính trị, kỹ thuật, thông tin, chính sách, thậm chí là rủi ro về con người, làm đảo lộn sự cân bằng vốn có của hợp đồng, làm cho việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng trở nên rất khó khăn tốn kém hoặc không thể thực hiện được. Trong hoàn cảnh như vậy, luật hợp đồng cổ điển sử dụng cơ chế cho phép chấm dứt hợp đồng dựa trên điều khoản bất khả kháng. Về sau, người ta thấy rằng, cơ chế này không còn thích hợp để giải quyết nhiều vấn đề được đặt ra từ thực tiễn, vì điều kiện để một sự kiện khách quan được công nhận là sự kiện bất khả kháng thì quá “nghiêm ngặt”, mà hậu quả pháp lý của nó thì lại quá cực đoan do được thực hiện theo cơ chế hoặc “được tất cả” hoặc là “không có gì”[2]. Trong nhiều trường hợp, cách giải quyết như vậy là không bảo đảm sự công bằng cho các bên.[3]
Để có cơ chế thích hợp trong việc giải quyết tình thế khó khăn, vừa bảo vệ hiệu lực hợp đồng, vừa bảo đảm lợi ích các bên, nhằm phân chia hợp lý rủi ro và tái lập sự cân bằng của hợp đồng, các nhà kinh doanh thương mại quốc tế thường đưa vào hợp đồng của họ một điều khoản cho phép bên gặp khó khăn đặc biệt được yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng, với các tên gọi khác nhau như điều khoản tình thế đặc biệt khó khăn (hardship) hoặc sự thay đổi hoàn cảnh (change of circumstances)[4]. Việc này đã giúp cho họ kiểm soát tốt các rủi ro, cũng như quản lý có hiệu quả các quan hệ hợp đồng trong hoạt động kinh doanh của mình. Vì được sử dụng có hiệu quả trong thực tiễn thương mại quốc tế, điều khoản nói trên đã được chấp nhận và tiếp thu trong thực tiễn xét xử, được pháp điển hóa thành các quy định cụ thể trong pháp luật của nhiều nước; và cũng được đưa vào các bộ quy tắc về hợp đồng thương mại quốc tế, mà điển hình là Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và Bộ quy tắc Luật Hợp đồng châu Âu (PECL)[5] và nước đi tiên phong là Italia đã có quy định buộc các bên đàm phán lại hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi trong BLDS năm 1942[6].
Có thể hiểu, điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi là điều khoản quy định cho phép một bên trong hợp đồng có quyền xin điều chỉnh hợp đồng, khi có những tác động khách quan làm thay đổi về hoàn cảnh và môi trường kinh tế tới mức gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của một hoặc các bên, làm mất đi cân bằng kinh tế của hợp đồng, làm cho việc thực hiện hợp đồng trở nên cực kỳ khó khăn và tốn kém.[7]
Theo Bản thuyết minh Dự thảo BLDS (sửa đổi) được Bộ Tư pháp trình Quốc hội (khóa XIII, kỳ họp thứ 10, ngày 24/11/2015) xem xét cho ý kiến đối với việc bổ sung quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trên cơ sở tổng kết thực tiễn và phù hợp với thông lệ quốc tế như sau: Việc bổ sung quy định về điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản để bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên trong hợp đồng và phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong thực tế nảy sinh nhiều trường hợp mà trong quá trình thực hiện hợp đồng thì hoàn cảnh thay đổi, dẫn đến quyền lợi của một bên bị thiệt hại nặng nề, thậm chí không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Vấn đề này không được quy định trong BLDS (1995 và 2005) nhưng đã được quy định trong một số luật chuyên ngành, chẳng hạn Luật Đấu thầu[8].
Để đảm bảo lẽ công bằng cho các bên trong hợp đồng, BLDS với tư cách là luật chung của hệ thống luật tư, cần bổ sung quy định về điều chỉnh hợp đồng khi có hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Theo đó, trong những trường hợp mà hoàn cảnh thay đổi dẫn đến sự thay đổi cơ bản sự cân bằng lợi ích giữa các bên thì các bên có thể thỏa thuận điều chỉnh hợp đồng; nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án quyết định. Để tránh sự lạm dụng, gây thiệt hại cho một bên trong hợp đồng, BLDS đưa ra các điều kiện áp dụng quy định về hoàn cảnh thay đổi.
PICC đã đưa ra quy định gọi là “điều khoản về hoàn cảnh khó khăn”, theo đó, trong những trường hợp này cho phép các bên điều chỉnh hợp đồng hoặc không thực hiện nghĩa vụ. Cụ thể, Điều 6.2.1 của PICC quy định: “Khi việc thực hiện hợp đồng trở nên khó khăn hơn cho một bên, bên này vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của mình, trừ những trường hợp liên quan đến các điều khoản về hoàn cảnh khó khăn được quy định dưới đây”. Và Điều 6.2.2 của PICC quy định: “Một hoàn cảnh được gọi là khó khăn, nếu nó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự cân bằng của hợp đồng, hoặc làm cho chi phí thực hiện quá cao, hoặc giá trị nhận được do thực hiện nghĩa vụ giảm quá thấp...”.[9]
Theo quy định tại khoản 1 Điều 420 BLDS năm 2015, khi thỏa mãn 5 điều kiện để xác định hoàn cảnh thay đổi cơ bản, thì phát sinh hậu quả pháp lý được quy định từ khoản 2 đến khoản 4, cụ thể như sau:
“Điều 420. Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
1. Hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng;
b) Tại thời điểm giao kết hợp đồng các bên không thể lường trước về sự thay đổi của hoàn cảnh;
c) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;
d) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên;
đ) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.
2. Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý.
3. Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án:
a) Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định;
b) Sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản.
Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi.
4. Trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết vụ việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Qua quy định nêu trên cho thấy, BLDS năm 2015 không phân biệt hoàn cảnh thay đổi mang tính chất force majeure (sự kiện bất khả kháng) hay hardship[10]; và không đưa ra khái niệm mang tính khái quát về hoàn cảnh như thế nào để được coi là hoàn cảnh thay đổi cơ bản mà thông qua các điều kiện để xác định thế nào là hoàn cảnh thay đổi cơ bản tương tự như quy định tại PICC, PECL và luật của các nước trên thế giới[11].
Trước đây, PICC năm 1994 khi diễn giải về sự thay đổi nghiêm trọng thì ghi rõ “sự thay đổi đến 50% hoặc hơn về giá hay giá trị nghĩa vụ, thì sẽ được coi là sự thay đổi cơ bản”, nhưng đến PICC năm 2004 quy định nêu trên đã bị bỏ và thay vào bằng cụm từ “xác định tùy hoàn cảnh” nhằm tăng tính khái quát, tạo sự linh hoạt theo từng tình huống cụ thể xảy ra trong thực tiễn. Ở nước ta, quy định tại điểm c và d khoản 1 Điều 420 cũng không diễn giải “hoàn cảnh thay đổi lớn” và “thiệt hại nghiêm trọng” tương tự như PICC năm 2004.
Các điều kiện để nhận dạng hoàn cảnh thay đổi về mặt pháp lý trong luật Việt Nam không khác so với luật các nước. Tuy nhiên, về thẩm quyền của Tòa án can thiệp vào nội dung hợp đồng, luật Việt Nam có quy định cho phép sự can thiệp được diễn ra một khi có yêu cầu của một bên, trong khi, ở nhiều nước, việc Thẩm phán xem xét để sửa đổi hợp đồng chỉ được thực hiện một khi có yêu cầu của cả hai bên. Quy định này chịu ảnh hưởng Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) nói trên.[12]
2. Thực trạng quy định về việc đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản và đề xuất, kiến nghị
- Thứ nhất, thời hạn như thế nào được coi là “thời hạn hợp lý” theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 420 BLDS năm 2015. Tác giả cho rằng, BLDS năm 2015 không quy định một mốc thời gian cụ thể là nhằm mục đích đảm bảo tính linh hoạt cho từng tình huống phát sinh cụ thể trên thực tiễn. Tuy nhiên, từ đó sẽ là nguyên nhân phát sinh các quan điểm khác nhau về thời hạn như thế nào được coi là hợp lý khi các bên xảy ra xung đột trong quá trình đàm phán lại hợp đồng hoặc không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng. Có quan điểm cho rằng, thời hạn hợp lý sẽ được tính từ lúc thời điểm hoàn cảnh thay đổi cơ bản xuất hiện, nhưng cũng có quan điểm cho rằng tính từ lúc thiệt hại do hoàn cảnh thay đổi xuất hiện[13]. Quan điểm khác lại cho rằng, thời hạn để một bên đưa ra yêu cầu đàm phán lại hợp đồng là khoảng thời gian sau khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản xảy ra cho đến trước lúc hợp đồng được hoàn thành[14].
Tham khảo quy định tại Điều 6.2.3 của PICC, thì khi hoàn cảnh thay đổi, bên bị bất lợi “có quyền yêu cầu tiến hành đàm phán lại hợp đồng. Yêu cầu này phải được đưa ra không chậm trễ và phải có căn cứ”. Qua đó, cho thấy yêu cầu đàm phán lại hợp đồng trong trường hợp này phải được đưa ra trong thời hạn sớm nhất có thể và có căn cứ xác đáng, ngay sau khi suy đoán là xảy ra hoàn cảnh cơ bản.
Tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng, thời hạn hợp lý phải được hiểu là thời hạn sớm nhất có thể mà bên bị ảnh hưởng xác định được hoàn cảnh cơ bản đã xảy ra và gây khó khăn quá lớn cho mình trong quan hệ hợp đồng. Việc trì hoãn, chậm trễ trong việc đưa ra yêu cầu đàm phán sửa đổi hợp đồng, làm cho bên kia tin chắc hợp lý rằng bên bị ảnh hưởng vẫn chấp nhận tiếp tục thực hiện hợp đồng với hoàn cảnh đó, thì yêu cầu đàm phán sau đó có thể không được chấp nhận.[15] Do đó, tác giả đề xuất trong thời gian tới cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn theo hướng tương tự như cách hiểu tại Điều 6.2.3 của PICC.
- Thứ hai, theo quy định tại khoản 3 Điều 420 BLDS năm 2015 cho thấy, chấm dứt hợp đồng được quy định tại điểm a, còn sửa đổi hợp đồng được quy định tại điểm b, tức là về mặt hình thức của điều luật sẽ làm cho người áp dụng pháp luật có suy nghĩ nhà làm luật ưu tiên cho việc chấm dứt hợp đồng hơn sửa đổi hợp đồng. Tòa án sẽ ưu tiên cho việc chấm dứt hợp đồng khi một trong các bên yêu cầu và chỉ được sửa đổi hợp đồng nếu việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi.
Tham khảo quy định của một số nước cho thấy, ở Đức khi hoàn cảnh thay đổi nghiêm trọng tới mức làm mất đi căn cứ của nó, thì bên bị ảnh hưởng bất lợi được yêu cầu bên kia điều chỉnh hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng (Điều 313 BLDS); ở Hà Lan, quy định: “Tòa án có thể, dựa theo lý chí và lẽ công bằng, điều chỉnh hiệu lực của hợp đồng hoặc chấm dứt một phần hoặc toàn bộ hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi tới mức làm cho một bên không còn có thể tiếp tục thực hiện hợp đồng” (Điều 6.258 BLDS); ở Peru thì lại ưu tiên việc điều chỉnh hợp đồng, việc chấm dứt hợp đồng chỉ được tính đến khi việc tiếp tục thực hiện hợp đồng là không thể, đồng thời quy định rằng “việc chấm dứt hợp đồng không làm ảnh hưởng đến các nghĩa vụ đã được hoàn thành” (Điều 1432 và tiếp theo).[16]
Tham khảo quy định tại Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và Bộ quy tắc Luật Hợp đồng châu Âu (PECL) cho thấy: Điều 6.2.3 của PICC quy định khi hoàn cảnh thay đổi bên bị bất lợi “có quyền yêu cầu tiến hành đàm phán lại hợp đồng. Yêu cầu này phải được đưa ra không chậm trễ và phải có căn cứ”. Và khoản 2 Điều 6: 111 của PECL quy định “nếu việc thực hiện hợp đồng trở nên quá khó khăn do có sự thay đổi về hoàn cảnh, thì các bên buộc phải tiến hành thỏa thuận lại nhằm chỉnh sửa hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng”.
Tác giả cho rằng, mục đích mà các bên giao kết hợp đồng là để thực hiện, khi một trong các bên gặp trở ngại, khó khăn thì phải dựa trên nguyên tắc “thiện chí, trung thực và hợp tác” để buộc các bên cùng nhau tìm cách khắc phục, việc chấm dứt hợp đồng chỉ là giải pháp cuối cùng, khi không còn giải pháp nào khác để cứu vãn. Do đó, trong tương lai khi BLDS năm 2015 sửa đổi, thì cần điều chỉnh thứ tự của điểm a và b khoản 3 Điều 420 và khi đó, Tòa án sẽ ưu tiên sửa đổi hợp đồng trước, còn chấm dứt hợp đồng chỉ là giải pháp cuối cùng.
- Thứ ba, theo quy định tại khoản 3 Điều 420 BLDS năm 2015 cho thấy, khi xảy ra hoàn cảnh thay đổi cơ bản mà các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, thì một trong các bên chỉ có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 6 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, thì: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý,…”.
Tham khảo quy định tại Điều 1.11 Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và Điều 1:301 Bộ quy tắc Luật Hợp đồng châu Âu (PECL) cho thấy, PICC, PECL cũng dùng khái niệm “Tòa án” trong quá trình giải quyết điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh khó khăn, nhưng khái niệm “Tòa án” trong trường hợp này được hiểu là bao hàm cả Trọng tài. Ở nước ta, khái niệm Tòa án và Trọng tài được sử dụng độc lập, riêng biệt với nhau.
Vấn đề này, trước đây trong quá trình xây dựng dự thảo quy định tại khoản 3 Điều 443 BLDS (sửa đổi) đã có tác giả kiến nghị nhưng không biết vì lý do gì mà không được các nhà làm luật tiếp thu và bổ sung là điều thực sự đáng tiếc.[17] Do đó, tác giả đề xuất trong thời gian tới cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn theo hướng tương tự như cách hiểu nêu trên của PICC, PECL và trong tương lai khi BLDS năm 2015 sửa đổi, thì cần bổ sung chủ thể Trọng tài vào quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 420.
- Thứ tư, về thời điểm chấm dứt hợp đồng theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 420 BLDS năm 2015 đã trao thẩm quyền cho Tòa án quyết định. Tuy nhiên, thực tiễn có thể xảy ra ba thời điểm như sau: (1) thời điểm hoàn cảnh thay đổi cơ bản được xác lập; (2) thời điểm bên có lợi ích bị ảnh hưởng từ sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết; (3) thời điểm Tòa án đưa ra phán quyết (bản án hoặc quyết định). Tác giả cho rằng, nếu luật cho phép Tòa án tùy nghi lựa chọn một trong ba thời điểm này hoặc bất kỳ thời điểm nào khác, thì có thể dẫn tới sự không thống nhất trong các giải pháp và có thể xảy ra trường hợp cùng một tình huống tương tự như nhau nhưng các Tòa án trong cả nước quyết định không giống nhau dẫn đến sự mất niềm tin của các bên vào cơ quan công lý.
Tham khảo quy định của một số nước cho thấy, ở Hà Lan, việc sửa đổi hoặc chấm dứt hợp đồng có thể có hiệu lực hồi tố, nghĩa là có hiệu lực đối với cả thời gian trước khi Tòa án ra phán quyết (Điều 6.258 BLDS năm 1992); Ở Peru, hợp đồng chỉ bị chấm dứt kể từ thời điểm có phán quyết của Tòa án (Điều 1432 và tiếp theo BLDS năm 1984); ở Brazil, quy định hợp đồng được chấm dứt kể từ thời điểm bên bị ảnh hưởng bất lợi nộp đơn yêu cầu Tòa án can thiệp (Điều 478 BLDS năm 2002).[18] Như vậy, có thể nhận thấy các quốc gia này đưa ra các giải pháp không giống nhau, nhưng đều có chung quan điểm ở chỗ không trao toàn quyền cho Tòa án xác định thời điểm điều chỉnh hợp đồng. Tác giả cho rằng, trong thời gian tới cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn theo hướng lựa chọn một thời điểm hợp đồng được điều chỉnh mà không nên trao toàn quyền cho Tòa án xác định và nên chọn thời điểm hoàn cảnh thay đổi cơ bản được xác lập sẽ phù hợp nhất.
- Thứ năm, theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 420 BLDS 2015 cho thấy “Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi”. Qua quy định này cho thấy, nhà làm luật đã trao quyền xác định thiệt hại như thế nào được coi là lớn hơn cho Tòa án quyết định. Hay nói khác hơn, quy định này là quy định mở, mang tính tùy nghi, nên rất khó để xác định thiệt hại như thế nào được coi là thiệt hại lớn hơn. Từ đó, Toà án rất khó cân nhắc việc chấp nhận hoặc không chấp nhận sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản.
Tham khảo quy định tại Điều 6.2.2 của PICC như sau: “Hoàn cảnh hardship được xác lập khi xảy ra các sự kiện làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng hoặc do chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên hoặc do giá trị nghĩa vụ đối trừ giảm xuống …” và thỏa mãn bốn điều kiện được quy định trong đoạn tiếp theo của Điều 6.2.2 như sau: Các sự kiện này xảy ra hoặc được biên bị thiệt hại biết đến sau khi giao kết hợp đồng; bên bị bất lợi đã không tính đến một cách hợp lý các sự kiện đó khi giao kết hợp đồng; các sự kiện đó nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị bất lợi; và rủi ro về các sự kiện này không được bên bị bất lợi gánh chịu. Quy định nêu trên của PICC có thể được xem là rõ ràng và có khả năng áp dụng phù hợp với những vụ việc xảy ra trên thực tế.
Để xác định thiệt hại, tác giả cho rằng cần yêu cầu các bên phải chứng minh được những giá trị lợi ích và thiệt hại cụ thể nếu Tòa án yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng theo cả hai hướng sửa đổi hoặc chấm dứt hợp đồng. Có thể là (1) lợi ích dự kiến mà các bên sẽ nhận được nếu chấm dứt hoặc tiếp tục thực hiện hợp đồng; (2) thiệt hại dự kiến mà các bên sẽ phải gánh chịu khi chấm dứt hoặc tiếp tục thực hiện hợp đồng; (3) thiệt hại tính đến thời điểm Tòa án xét xử mà các bên gánh chịu; (4) chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên và giá trị nghĩa vụ đối trừ bị giảm xuống.
Nếu không có quy định xác định mức thiệt hại cụ thể giữa chấm dứt hợp đồng, sửa đổi hợp đồng để cân bằng lợi ích, thì khả năng để đảm bảo an toàn cho phán quyết của mình các Tòa án cấp sơ thẩm sẽ chọn giải pháp chấm dứt hợp đồng. Tác giả cho rằng, trong thời gian tới cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn theo hướng tương tự như quy định của PICC và cụ thể hơn cách thức đánh giá mức độ thiệt hại khi sửa đổi hay chấm dứt hợp đồng trong hoàn cảnh thay đổi cơ bản.
[1] Phạm Duy Nghĩa (2003), Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp luật hợp đồng Việt Nam, trong quyển “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Như Phát và Lê Thị Thu Thủy (chủ biên), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 19.
[2] Stone, Richard, The Modern Law of Contract, 5th ed., Cavendish, London 2002, tr. 404.
[3] Lê Minh Hùng (2015), Hiệu lực của hợp đồng (sách chuyên khảo), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 223 - 224.
[4] Ở Mỹ, thuật ngữ được dùng là “commercial impracticcability” (thương mại bất khả thi), ở Anh là “frustration of contract” (sự vô ích của hợp đồng), ở Đức là “Störung der Geschäftsgrundlage” (sự xâm phạm đến nền tảng của giao dịch), ở Pháp là imprévision (sự không có giá trị thực thi/sự không khả thi), ở Thụy Sĩ là “impossibility” (bất khả thi),… Tuy nhiên, thuật ngữ “hardship” được chấp nhận và sử dụng rộng rãi nhất. (Xem: Trần Thị Nguyệt (2023), Phân biệt hoàn cảnh thay đổi cơ bản với bất khả kháng nhằm thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Tạp chí Khoa học Đại học Hạ Long, tr. 46 - 47.).
[5] Lê Minh Hùng (2015), Hiệu lực của hợp đồng (sách chuyên khảo), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 224.
[6] Ngô Quốc Chiến (2015), Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi và việc sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 15(295), tháng 8/2015, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208458, truy cập ngày 13/7/2024.
[7] Lê Minh Hùng (2009), Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi (hardship) trong pháp luật nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 6, tháng 3/2009, tr. 42.
[8] Điều 57 Luật Đấu thầu năm 2005 quy định về điều chỉnh hợp đồng như sau:
1. Việc điều chỉnh hợp đồng chỉ áp dụng đối với hình thức hợp đồng theo đơn giá, hình thức hợp đồng theo thời gian và được thực hiện theo quy định sau đây:
a) Trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách về thuế, tiền lương ảnh hưởng trực tiếp đến giá hợp đồng thì được điều chỉnh theo các chính sách này kể từ thời điểm các chính sách này có hiệu lực;
b) Trường hợp có khối lượng, số lượng tăng hoặc giảm trong quá trình thực hiện hợp đồng nhưng trong phạm vi của hồ sơ mời thầu và không do lỗi của nhà thầu gây ra thì việc tính giá trị tăng hoặc giảm phải căn cứ vào đơn giá của hợp đồng;
c) Trường hợp giá nhiên liệu, vật tư, thiết bị nêu trong hợp đồng do Nhà nước kiểm soát có biến động lớn ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng thì phải báo cáo người có thẩm quyền xem xét, quyết định.
2. Việc điều chỉnh hợp đồng chỉ áp dụng trong thời gian thực hiện hợp đồng theo hợp đồng đã ký và phải được người có thẩm quyền xem xét, quyết định. Giá hợp đồng sau điều chỉnh không được vượt dự toán, tổng dự toán hoặc giá gói thầu trong kế hoạch đấu thầu được duyệt, trừ trường hợp được người có thẩm quyền cho phép.
3. Trường hợp có phát sinh hợp lý những công việc ngoài phạm vi hồ sơ mời thầu thì chủ đầu tư thoả thuận với nhà thầu đã ký hợp đồng để tính toán bổ sung các công việc phát sinh và báo cáo người có thẩm quyền xem xét, quyết định. Trường hợp thoả thuận không thành thì nội dung công việc phát sinh đó hình thành một gói thầu mới và tiến hành lựa chọn nhà thầu theo quy định của Luật này.
[9] Bộ Tư pháp, Bản thuyết minh Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), tháng 10/2014, tr. 57.
[10] Các khái niệm hardship và force majeure không dễ phân biệt khi được áp dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, giữa hai khái niệm có sự khác biệt cơ bản: hardship hàm chỉ một tình huống khiến cho việc thực hiện hợp đồng trở nên khó khăn, đặc biệt về phương diện chi phí, nhưng không phải là không thể thực hiện được; trong khi force majeure hàm ý rằng việc thực hiện hợp đồng là không thể được, ít nhất là trong một khoảng thời gian. Vả lại, giữa hai khái niệm còn có sự khác biệt mang tính chức năng: hardship là căn cứ, lý do để điều chỉnh hợp đồng và được sử dụng trong điều kiện các bên vẫn theo đuổi mục tiêu ban đầu khi giao kết hợp đồng; còn force majeure được nhắc đến trong bối cảnh hợp đồng không được thực hiện và đứng trước nguy cơ chấm dứt. Xem: Nguyễn Ngọc Điện (2019), Giáo trình Luật dân sự, tập 2, (tái bản lần thứ 1 có chỉnh sửa bổ sung), Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 116 - 117.
[11] Đàm Thị Diễm Hạnh (2021), Bàn về khái niệm hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong thực hiện hợp đồng theo pháp luật một số nước trên thế giới và ở Việt Nam, Tại chí Pháp luật và Thực tiễn, số 49/2021, tr. 6.
[12] Nguyễn Ngọc Điện (2019), Giáo trình Luật dân sự, tập 2, (tái bản lần thứ 1 có chỉnh sửa bổ sung), Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 125.
[13] Trần Hậu, Hoàng Thúy Quỳnh, Nguyễn Thị Thanh Trà, Trần Văn Hương, Yêu cầu Tòa án sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ quan - Từ quy định đến thực tiễn áp dụng, https://fdvn.vn/yeu-cau-toa-an-sua-doi-hop-dong-khi-hoan-canh-thay-doi-co-ban-tu-quy-dinh-den-thuc-tien-ap-dung/, truy cập ngày 21/7/2024.
[14] Kinh Thị Tuyết, Hoàn cảnh thay đổi trong hợp đồng - Nhận diện và hậu quả pháp lý, Tạp chí Công Thương điện tử: https://tapchicongthuong.vn/hoan-canh-thay-doi-trong-hop-dong-nhan-dien-va-hau-qua-phap-ly-74730.htm, truy cập ngày 21/7/2024.
[15] Kinh Thị Tuyết (2020), Hoàn cảnh thay đổi trong hợp đồng – Nhận diện và hậu quả pháp lý, Tạp chí Công thương điện tử, https://tapchicongthuong.vn/hoan-canh-thay-doi-trong-hop-dong-nhan-dien-va-hau-qua-phap-ly-74730.htm, truy cập ngày 21/7/2024.
[16] Xem: Ngô Quốc Chiến (2015), Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi và việc sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 15(295), tháng 8/2015, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208458, truy cập ngày 13/7/2024.
[17] Đỗ Văn Đại (2015), Bàn thêm về điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 13(293), tháng 7/2015, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210176, truy cập ngày 14/7/2024.
[18] Ngô Quốc Chiến (2015), Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi và việc sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 15(295), tháng 8/2015, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208458, truy cập ngày 21/7/2024.
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua đường biển - Ảnh: vietstock
Bài liên quan
-
Bàn về áp dụng Điều 129 BLDS năm 2015 và Án lệ số 55/2022/AL đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không tuân thủ quy định về hình thức
-
Một số quy định chung của BLDS năm 2015 - Hạn chế và kiến nghị
-
Thẩm quyền theo cấp của Tòa án đối với tranh chấp về hợp đồng dân sự trong trường hợp không xác định được địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài
-
Hợp đồng vi phạm về hình thức trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Bất cập của quy định “đương nhiên được xóa án tích” theo Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
-
Cần truy tố và xét xử Nguyễn Văn B về tội “mua bán trái phép súng săn”
-
Hội thi “Tiếng hát người giữ rừng” tại Quảng Nam
Bình luận