Quyền hủy bản án sơ thẩm để điều tra và đình chỉ vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm

Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại và hủy bản án sơ thẩm đình chỉ vụ án là những hình thức thực hiện thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm (HĐXXPT) để khắc phục những sai sót ở cấp sơ thẩm cũng như để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan trong vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế áp dụng những quy định này vẫn còn phát sinh những vướng mắc, bất cập.

Bộ luật Tố tụng Hình sự  2015 (BLTTHS)  đã quy định rất rõ các căn cứ để HĐXXPT hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại và hủy bản án sơ thẩm đình chỉ vụ án.

1. Quyền hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại và hủy bản án đình chỉ vụ án

1.1. Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại

Hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại là việc HĐXXPT hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để tiến hành lại giai đoạn tố tụng điều tra vụ án nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác, đảm bảo quyền kháng cáo, kháng nghị.

Thẩm quyền này nhằm bảo vệ nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. HĐXXPT ra quyết định hủy bỏ toàn bộ bản án, yêu cầu điều tra lại do có những thiếu sót trong quá trình điều tra ở cấp sơ thẩm mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được, tránh việc xét xử oan, sai, hay bỏ lọt tội phạm.

Khoản 1 Điều 358 BLTTHS 2015 quy định: “Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong các trường hợp: a) Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm; b) Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được; c) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố.”

Như vậy căn cứ thứ nhất để HĐXXPT hủy bản án sơ thẩm đề điều tra lại đó là khi có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm. Việc HĐXXPT cho rằng cấp sơ thẩm đã bỏ lọt tội phạm xuất phát từ kháng cáo của bị cáo, bị hại, đương sự hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc cũng có thể xuất phát từ đánh giá của HĐXXPT qua quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án.

Tuy nhiên, ở điểm này tồn tại những điểm bất cập mà theo tác giả cần phải sửa đổi, đó là có phải tất cả các trường hợp ở cấp sơ thẩm để bỏ lọt tội phạm, người phạm tội đều bị tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án để điều tra lại và xét xử lại từ đầu hay không. Trên thực tế, sẽ có những trường hợp việc bỏ lọt tội phạm, người phạm tội ở giai đoạn xét xử là do lỗi của Tòa án. Đó là trường hợp có đầy đủ các căn cứ, chứng cứ để đề nghị truy tố và Viện kiểm sát đã quyết định truy tố, nhưng do Tòa án mắc sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật, dẫn đến trường hợp bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Rõ ràng, trường hợp này là do lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, chứ không phải do lỗi của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, nên việc hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong trường hợp này là chưa hợp lý và tốn thời gian giải quyết vụ án. Đây là căn cứ để HĐXXPT hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.

Trong trường hợp có căn cứ khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm, HĐXXPT chỉ được hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại nếu không thể sửa bản án sơ thẩm, áp dụng điều luật của BLHS về tội nặng hơn theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 357 BLTTHS năm 2015.[1]

Căn cứ thứ hai để HĐXXPT hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại đó là việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ và cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Việc điều tra được coi là không đầy đủ nếu dựa vào kết quả điều tra đó thì không đủ cơ sở để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ[2]. Nhưng hiện nay vẫn chưa có một văn bản hướng dẫn về việc xác định điều tra thế nào là không đầy đủ và vẫn có những quan điểm khác nhau về vấn đề này dẫn đến rất khó áp dụng trên thực tế. Theo tác giả, việc điều tra không đầy đủ ở cấp sơ thẩm là căn cứ để cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, đó là trường hợp giai đoạn điều tra, truy tố không xác định đầy đủ đối tượng chứng minh của vụ án dẫn đến kết quả điều tra, truy tố không phản ánh được sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn xét xử dựa trên kết quả điều tra truy tố này và dẫn tới việc đưa ra các quyết định không khách quan, toàn diện.

Căn cứ thứ ba để HĐXXPT hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, đó là có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố. Đây là một điểm mới bổ sung và cũng là điểm tiến bộ hơn so với quy định của BLTTHS 2003. Việc BLTTHS 2003 không đưa căn cứ này vào để làm căn cứ hủy bản án sơ thẩm dẫn đến tình trạng bỏ sót nhiều trường hợp vi phạm pháp luật trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm nhưng vẫn không bị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. Ví dụ như điều tra viên có hành vi bức cung, dùng nhục hình, ngụy tạo chứng cứ hoặc những trường hợp khởi tố theo yêu cầu, theo quy định tại Điều 155 BLTTHS năm 2015, nhưng không có yêu cầu mà các cơ quan có thẩm quyền vẫn tiến hành khởi tố. Việc đưa căn cứ này bổ sung trong BLTTHS 2015 là hoàn toàn phù hợp.

Điểm o khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015 quy định: “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án.” Và tại Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT - VKSNDTC - TANDTC - BCA - BQP ngày 22/12/2017 quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung đã liệt kê những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Theo tác giả việc áp dụng thông tư này để giải thích rõ hơn cho cụm từ “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” là rất hợp lý tạo sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật.

1.2.Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án

Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án là trường hợp hi hữu, ít khi xảy ra khi thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm. Khi thực hiện thẩm quyền này, HĐXXPT cần phải xác định được thân phận pháp lý của bị can, bị cáo. Đó là việc tuyên bị cáo không có tội rồi mới ra quyết định đình chỉ vụ án. Nếu bị cáo có tội, nhưng việc quy kết trách nhiệm hình sự vào thời điểm đó không có ý nghĩa nữa, thì HĐXXPT ra quyết định đình chỉ vụ án.

Điều 359 BLTTHS 2015 quy định: Khi có một trong những căn cứ quy định tại điểm 1 và điểm 2 Điều 157 BLTTHS thì HĐXXPT hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án; nếu có một trong những căn cứ quy định tại các điểm 3, 4, 5, 6, 7 Điều 157 BLTTHS thì hủy bản án sơ thẩm và tiến hành đình chỉ vụ án. Đây là những căn cứ luôn tồn tại một cách khách quan, nhưng vì những lý do chủ quan và khách quan các cơ quan tiến hành tố tụng đã không phát hiện ra trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nên đã truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Khi xét xử, HĐXXPT có quyền hủy toàn bộ hoặc một phần bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị và đình chỉ vụ án đối với từng bị cáo hoặc tất cả bị cáo. Dựa vào quy định của Điều 359 có thể chia thành các trường hợp thực hiện thẩm quyền của HĐXXPT khi có căn cứ đình chỉ vụ án như sau:

Hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án

Căn cứ vào một trong hai quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 157 BLTTHS 2015 thì HĐXXPT quyết định hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án.

Một là, không có sự việc phạm tội

Đây là trường hợp sự việc không có dấu hiệu của tội phạm theo quy định tại Điều 8 BLHS 2015. Điều này diễn ra do nhiều nguyên nhân như: nhầm lẫn của người tố giác, vu khống do thù ghét…[3]

Hai là, hành vi không cấu thành tội phạm

Đây là trường hợp có hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trên thực tế. Tuy nhiên, hành vi này thiếu những dâu hiệu có trong cấu thành tội phạm nên hành vi đó không phải là tội phạm. Thực tế cho thấy có nhiều hành vi về hình thức rất giống với hành vi phạm tội nhưng xét trong tổng thể các dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhất định thì lại không thỏa mãn. Những hành vi này có thể là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người thực hiện nó lại không có lỗi, hành vi chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không đáng kể, hành vi được thực hiện khi đã có những tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự như: sự kiện bất ngờ, chuẩn bị phạm tội ít nghiêm trọng, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.

Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án

Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại các khoản 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 BLTTHS 2015, đó là các căn cứ:

Một là, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 BLHS 2015. Về bản chất thì căn cứ này cũng chỉ là trường hợp hành vi không cấu thành tội phạm do không thỏa mãn dấu hiệu về chủ thể. Nhà làm luật đã tách riêng thành căn cứ riêng biệt để nhấn mạnh tính chất quan trọng về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Hai là, người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật

Hành vi phạm tội cần phải được điều tra, truy tố, xét xử. Người thực hiện hành vi phạm tội phải được xử lý theo pháp luật. Tuy nhiên, mỗi hành vi phạm tội chỉ được giải quyết một lần. Nếu hành vi phạm tội của một người đã bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với hành vi đó và đã có bản án, quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật thì không được tiến hành thêm một quy trình tố tụng thứ hai để xử lý hành vi đó. Quy định này cũng phù hợp với nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm được ghi nhận trong khoản 3 Điều 31 Hiến pháp 2013 và Điều 14 BLTTHS năm 2015. Do vậy, nếu một người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật thì HĐXXPT phải hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án đối với bị cáo.

Ba là, đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do BLHS quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu về mặt hình sự. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 27, Điều 28 BLHS năm 2015.

Bốn là, tội phạm được đại xá

Đại xá là biện pháp khoan hồng mang tính nhân đạo của Nhà nước nhằm tha tội hoàn toàn và triệt để cho một số loại tội phạm nhất định đối với hàng loạt người phạm tội. Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định đại xá trong những sự kiện trọng đại của đất nước. Một người thực hiện hành vi phạm tội nếu trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà có quyết định đại xá thì cơ quan tiến hành tố tụng phải ra quyết định đình chỉ vụ án. Nếu tội phạm đã được đại xá trước đó mà Tòa án cấp sơ thẩm vẫn kết tội bị cáo thì HĐXXPT phải hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.

Năm là, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nếu người phạm tội chết ở giai đoạn nào thì cơ quan tiến hành tố tụng phải đình chỉ vụ án ở giai đoạn đó. Trong trường hợp sau khi kháng cáo hoặc bị kháng cáo, kháng nghị, bị cáo chết ở giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, thì Tòa án cấp phúc thẩm vẫn phải mở phiên tòa phúc thẩm và ra bản án phúc thẩm, cụ thể như sau:

  • Nếu bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo không phạm tội, bị kháng cáo, kháng nghị theo hướng có tội, nếu thấy việc tuyên không có tội là đúng, thì HĐXXPT áp dụng Điều 356 BLTTHS năm 2015 không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm, nếu xét thấy bản án sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội là không đúng, thì HĐXXPT áp dụng khoản 2 Điều 359 BLTTHS 2015 hủy bản án sơ thẩm về phần tuyên bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án về phần hình sự đối với bị cáo đã chết.
  • Bản án sơ thẩm tuyên bị cáo phạm tội bị kháng cáo, kháng nghị, nếu thấy bản án sơ thẩm tuyên bị cáo phạm tội là không đúng thì HĐXXPT áp dụng điểm 2 Điều 157 và khoản 1 Điều 359 BLTTHS 2015 hủy bản án sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án đối với bị cáo đã chết; nếu thấy bản án sơ thẩm tuyên bị cáo phạm tội là đúng, thì áp dụng điểm 7 Điều 157 và khoản 2 Điều 359 BLTTHS 2015 để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án về phần hình sự đối với bị cáo đã chết.

Trong các trường hợp trên, quyết định của bản án sơ thẩm bị hủy gồm: quyết định về hình phạt chính và hình phạt bổ sung; quyết định về kê biên tài sản để đảm bảo thi hành hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản, hình phạt tịch thu tài sản.

Tuy nhiên, quy định tại khoản 2 Điều 359 BLTTHS 2015 có một hạn chế đó là: việc không quy định căn cứ để HĐXXPT hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án trong trường hợp vụ án thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu nhưng bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu hoặc người đã yêu cầu tự nguyện rút yêu cầu là một sự thiếu sót. Tuy nhiên tại Công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26 tháng 11 năm 2018 có hướng dẫn đối với trường hợp bị hại hoặc người đại diện của bị hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa phúc thẩm như sau: “Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm: Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Trong bản án phúc thẩm, Tòa án phải nhận định rõ lý do hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án là do người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu, không phải do lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm.”

Theo tác giả hướng dẫn của TANDTC đối với trường hợp rút yêu cầu khởi tố là hợp lý. Thể hiện sự tôn trọng ý chí của bị hại, tạo điều kiện cho người phạm tội khắc phục hậu quả, hạn chế gây những tổn thất, mất mát về mặt vật chất, tinh thần, danh dự không cần thiết có thể có đối với bị hại, tạo cơ hội để hành gắn mối quan hệ giữa hai bên đối lập. Khi người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì thì điều kiện bắt buộc để khởi tố (yêu cầu khởi tố của bị hại cũng không còn), vụ án phải được đình chỉ.

Tuy nhiên, theo tác giả, đối với trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm mới phát hiện ra bị hại và người đại diện không yêu cầu, thì trong trường hợp này sẽ được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và HĐXXPT không được hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án mà HĐXXPT phải hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại theo điểm c khoản 1 Điều 358 BLTTHS 2015. Sau khi thụ lý lại hồ sơ vụ án, cơ quan điều tra mới ra quyết định đình chỉ điều tra theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 230 BLTTHS 2015. Trong khi đó, tại phiên tòa giám đốc thẩm, nếu xét thấy tội phạm thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu mà bị hại và người đại diện không yêu cầu thì hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án ngay theo quy định tại Điều 392 BLTTHS 2015. Việc chấm dứt tố tụng ngay lập tức như vậy tiết kiệm thời gian và chi phí tố tụng. Vì vậy, cần bổ sung theo hướng quy định Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm quyết định đình chỉ vụ án nếu tội phạm thuộc trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu mà bị hại và người đại diện không yêu cầu.[4]

2. Một số kiến nghị hoàn thiện

2.1. Kiến nghị hoàn thiện thực hiện thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại của Tòa án cấp phúc thẩm

Từ những phân tích trên, tác giả kiến nghị sửa đổi một số vấn đề về việc hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại như sau:

Thứ nhất, bổ sung cụm từ “việc điều tra, truy tố…” vào khoản 1 Điều 358 BLTTHS theo hướng như sau: “1. Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong các trường hợp: Có căn cứ cho rằng việc điều tra, truy tố để bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm...”

Thứ hai, cần ban hành văn bản giải thích cho việc thế nào là điều tra không đầy đủ. Theo tác giả, cần hướng dẫn như sau: “Việc điều tra không đầy đủ ở cấp sơ thẩm dẫn đến là căn cứ để cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại đó là trường hợp giai đoạn điều tra, truy tố không xác định đầy đủ đối tượng chứng minh của vụ án dẫn đề kết quả điều tra, truy tố không phản ánh được sự thật khách quan của vụ án” ví dụ như không triệu tập, lấy lời khai của những người mà lời khai của họ quan trọng đối với việc xác định sự thật khách quan của vụ án; không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hoạt động đối chất, nhận dạng, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi…; không tiến hành trưng cầu dám định trong trường hợp bắt buộc phải trưng cầu dám định theo quy định tại Điều 206 BLTTHS năm 2015; không xác minh đầy đủ những tình tiết liên quan đến nhân thân của bị cáo hay bị hại; không làm rõ được các tình tiết quan trọng như động cơ, mục đích, phương tiện, công cụ, vai trò, vị trí của từng bị cáo trong trường hợp đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức…[5].

Thứ ba, cần ban hành văn bản hướng dẫn thế nào là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm làm căn cứ cho hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại. Mặc dù tại điểm o khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015 quy định: “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án.”. Tuy nhiên, thế nào là “xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng” thì vẫn chưa có ăn bản hướng dẫn. Mặc dù tại Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT - VKSNDTC - TANDTC - BCA - BQP ngày 22/12/2017 quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung đã liệt kê những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, đây chỉ là những căn cứ để ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Việc HĐXXPT vận dụng thông tư này chỉ là sự linh hoạt trong áp dụng pháp luật nên vẫn cần có văn bản cụ thể để áp dụng trong trường hợp này. Và theo tác giả cần hướng dẫn theo hướng như Điều 6 của Thông tư trên.

2.2. Kiến nghị hoàn thiện chế định thực hiện thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm

Hiện nay việc bị hại hoặc người đại diện rút yêu cầu khởi tố ở phiên tòa phúc thẩm vẫn chưa được BLTTHS quy định mà mới chỉ được hướng dẫn tại Công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26 tháng 11 năm 2018 của TANDTC. Tuy nhiên, công văn không phải là văn bản pháp luật nên không phải là căn cứ để thẩm phán áp dụng. Và để có căn cứ vững chắc nên đưa trường hợp bị hại hoặc người đại diện rút yêu cầu khởi tố và trường hợp không có yêu cầu khởi tố đối với những trường hợp khởi tố theo yêu cầu là căn cứ để HĐXXPT hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Nên theo quan điểm của tác giả cần bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 359 BLTTHS như sau:

“Khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 hoặc các khoản 3, 4, 5, 6, 7 và 8 Điều 157 của Bộ luật này thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án”. Đồng thời để đảm bảo cho việc không yêu cầu khởi tố vụ án thể hiện sự tự do ý chí của bị hại và người đại diện, phản ánh ý chí chung của họ cần sửa đổi quy định tại khoản 8 Điều 157 BLTTHS 2015 theo hướng như sau: “Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau:… Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố, trừ trường hợp không yêu cầu khởi tố do bị cưỡng ép

 

Một phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Đăk Lawk - Ảnh: Thanh Tùng

 

 


[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình ‘Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, tr 496

[2] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình ‘Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, tr 497

[3] GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh và Luật sư. TS. Phan Trung Hoài , Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nxb CTQGST, 2018, tr. 305.

[4] Mai Thanh Hiếu, Phạm Thái, “Không yêu cầu và rút yêu cầu khởi tố đối với các tội phạm chỉ được khởi tố theo yêu cầu”, Tạp chí khoa học pháp lý số 03/2018, tr. 30.

[5] Phạm Minh Huấn, “ Thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015”, Luận văn thạc sĩ luật học.

HOÀNG ĐÌNH DŨNG (Tòa án quân sự khu vực Quân khu 4)