Tìm hiểu về việc quyết định hình phạt trong một số trường hợp đặc biệt theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành

Trong bài viết tác giả tập trung phân tích, đánh giá quy định về quyết định hình phạt của Tòa án trong các trường hợp đặc biệt theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành.

1. Quyết định hình phạt trong một số trường hợp đặc biệt theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự rất đa dạng do sự đa dạng về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân người phạm tội. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quyết định hình phạt, cùng với các căn cứ chung về quyết định hình phạt nêu tại Điều 50 Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015, nhà lập pháp hình sự còn có một số quy định riêng liên quan đến một số trường hợp cụ thể như quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, đồng phạm.

1.1. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng

Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng là quy định thể hiện tính nhân đạo, đồng thời cũng là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện triệt để các yêu cầu của nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đáng được khoan hồng.

Theo Điều 54 BLHS 2015: Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS hiện hành. Đặc biệt, trong trường hợp đối tượng bị xét xử là người phạm tội lần đầu, giữ vai trò là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật áp dụng đối với người đó. Nếu điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

1.2. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

Theo quy định của Điều 55 BLHS 2015 thì: Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo nguyên tắc sau đây:

- Đối với hình phạt chính:

+ Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;

+ Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung;

+ Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt tổng hợp là tù chung thân;

+ Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình;

+ Trường hợp hình phạt tuyên đối với người phạm tội là phạt tiền thì phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác mà các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;

+ Riêng hình phạt trục xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác mà áp dụng độc lập.

- Đối với hình phạt bổ sung:

+ Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do BLHS quy định đối với loại hình phạt đó;

+ Đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;

+ Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.

1.3. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

Thực tiễn đấu tranh chống tội phạm cho thấy, không phải trong mọi trường hợp người phạm nhiều tội mà các tội phạm đều được phát hiện, đưa ra xét xử cùng một thời điểm, có nhiều trường hợp các tội phạm được phát hiện và đưa ra xét xử ở những thời điểm khác nhau, do vậy, đặt ra vấn đề phải tổng hợp hình phạt của nhiều bản án. Quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án là một trong những trường hợp đặc biệt của chế định quyết định hình phạt.

Theo quy định tại Điều 56 BLHS 2015 thì việc Tòa án quyết định hình phạt khi có nhiều bản án trong những trường hợp cụ thể sau đây:

- Một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị đưa ra xét xử về tội phạm đã thực hiện trước khi có bản án này: Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 BLHS 2015 về tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

- Một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm một tội mới và bị Tòa án đưa ra xét xử: Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 BLHS 2015.

- Một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng vì một lý do nào đó mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp theo quy định của hai trường hợp trên: Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tương ứng trong hai trường hợp trên.

1.4. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt

Khi quyết định hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, Tòa án phải tuân thủ các quy định chung về quyết định hình phạt như các căn cứ quyết định hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS), vấn đề quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, tổng hợp hình phạt... Đồng thời, theo quy định của khoản 1 Điều 57 BLHS 2015 thì căn cứ pháp lý của việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt vẫn là chế tài của quy phạm pháp luật quy định về tội phạm tương ứng. Ngoài ra, Tòa án còn phải dựa vào những căn cứ sau đây để quyết định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt:

Thứ nhất, khi quyết định hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, Tòa án phải căn cứ vào các điều của BLHS về các tội tương ứng. Đây là căn cứ đầu tiên để xác định cơ sở pháp lý của TNHS.

Thứ hai, khi quyết định hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt, Tòa án căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.

Thứ ba, khi quyết định hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt Tòa án căn cứ vào mức độ thực hiện ý định phạm tội. Mức độ thực hiện ý định phạm tội là đại lượng chỉ hiệu quả, khối lượng của việc đạt được mục đích phạm tội đã đề ra. Mức độ thực hiện ý định phạm tội của người phạm tội càng tiến tới gần mục đích phạm tội thì mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi càng cao, do đó hình phạt mà Tòa án quyết định càng nghiêm khắcThứ tư, khi quyết định hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt, Tòa án căn cứ vào những nguyên nhân khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. Đây là những nguyên nhân không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người phạm tội, mà phát sinh ngoài ý chí của họ.

Bên cạnh quy định quy tắc chung, Điều 57 BLHS 2015 còn ghi nhận quy tắc quyết định hình phạt cụ thể đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt. Cụ thể:

- Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các điều luật cụ thể.

- Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.

1.5. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm

Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm được thực hiện theo quy định của Điều 58 BLHS 2015. Cụ thể, khi quyết định hình phạt đối với những người tham gia vào vụ án có yếu tố đồng phạm, Tòa án phải dựa trên những căn cứ cụ thể sau đây:

Thứ nhất, khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải cân nhắc tính chất của đồng phạm. Tính chất của đồng phạm được xác định bởi tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khi có nhiều người tham gia dưới hình thức đồng phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm quyết định mức độ TNHS của những người tham gia đồng phạm, do đó luật quy định khi quyết định hình phạt Tòa án phải xem xét cân nhắc tính chất của đồng phạm. Để đánh giá đúng được vấn đề này thì phải quan tâm đến hình thức đồng phạm, xác định mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hình thức đồng phạm đó.

Nếu đồng phạm thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức, thì luật hình sự quy định là tình tiết tăng nặng TNHS với hai mức độ khác nhau:

+ Mức độ thứ nhất là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng. Trường hợp này được quy định khi hình thức phạm tội có tổ chức xảy ra ở một loại tội phạm nào đó làm cho mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó cao hơn hẳn trường hợp phạm tội không có tình tiết này. 

+ Mức độ thứ hai là tình tiết tăng nặng TNHS nói chung được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 52 BLHS 2015.

Thứ hai, khi Tòa án quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm phải căn cứ vào tính chất tham gia hành động phạm tội của từng người đồng phạm.

Nếu như khi dựa vào căn cứ thứ nhất thì Tòa án mới chỉ xác định được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội chung trong hành vi phạm tội của tất cả những người tham gia đồng phạm, thì với căn cứ này Tòa án có thể đánh giá được tính chất hành vi của từng người đồng phạm. TNHS là trách nhiệm cá nhân, do vậy, để quyết định hình phạt cho từng người đồng phạm phải dựa trên cơ sở hành vi cá nhân của mỗi người đồng phạm. Đây chính là thể hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt nói chung và nguyên tắc phân hóa trong đồng phạm nói riêng.

Mức độ tham gia của người đồng phạm được xác định bởi mức độ đóng góp thực tế của mỗi người đồng phạm vào việc thực hiện tội phạm và hậu quả chung của tội phạm. Để đánh giá mức độ tham gia của mỗi người đồng phạm Tòa án phải căn cứ vào: phương pháp, thủ đoạn thực hiện tội phạm, mức độ quyết tâm phạm tội, động cơ, mục đích phạm tội, hiệu quả của hành vi phạm tội của người đó trong hoạt động phạm tội chung...

Khi quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, Tòa án phải đánh giá tổng hợp cả tính chất và mức độ tham gia phạm tội của mỗi người đồng phạm. Trong đó tính chất tham gia phạm tội nói lên đặc tính về chất, còn mức độ tham gia phạm tội nói lên đặc tính về lượng của hành vi phạm tội của mỗi người đồng phạm. Hai mặt của một vấn đề này phải được đánh giá, cân nhắc toàn diện trong mối quan hệ qua lại với nhau để thấy được tính chất nguy hiểm cho xã hội của mỗi người đồng phạm.

Thứ ba, khi Tòa án quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm phải căn cứ vào mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Đó là những yếu tố như: người đồng phạm tham gia ở giai đoạn phạm tội nào? Mức độ xúi giục, mức độ giúp sức của người đó đối với người thực hành đến đâu? Là người cầm đầu tích cực (chủ động) hay bị lôi kéo, xúi giục (thụ động)? Động cơ, mục đích của những người đồng phạm? Tác dụng của các hành vi đó đối với việc thực hiện tội phạm chung ra sao?... Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với việc quyết định hình phạt đúng, phù hợp với từng người trong vụ án đồng phạm.

Thứ tư, khi quyết định hình phạt đối với từng người đồng phạm, Tòa án phải cân nhắc những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ riêng của từng người đó. Căn cứ này là sự cụ thể hóa tiếp tục nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và nguyên tắc phân hóa triệt để trong đồng phạm.

Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của mỗi người tham gia đồng phạm là những tình tiết chỉ liên quan đến hành vi và nhân thân của người đó mà không có liên quan đến những người đồng phạm khác thì chỉ áp dụng đối với người đó, còn những người đồng phạm khác không phải chịu hoặc không được hưởng  trong việc quyết định hình phạt đối với trường hợp đồng phạm. 

1.6. Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Xuất phát từ chính sách nhân đạo, bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền trẻ em, vấn đề TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội có những quy định riêng, khác với những đối tượng phạm tội khác. Theo quy định tại Điều 91 BLHS 2015, việc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của họ và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành người có ích cho xã hội. Khoản 3 Điều 91 BLHS 2015 quy định: “Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm”. Khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi, cần chú ý những vấn đề cụ thể sau:

- Chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn TNHS và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn TNHS quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương XII BLHS 2015 không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.

- Chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.

- Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

- Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

- Việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt; tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội; tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng có những quy định riêng được ghi nhận tại Mục 5 Chương XII BLHS 2015.

2. Một số sửa đổi, bổ sung về quyết định hình phạt trong một số trường hợp đặc biệt trong dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi)

Dự thảo BLHS (sửa đổi) có một số bổ sung liên quan đến quy định về quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể phù hợp với việc bổ sung các hình phạt mới như tù chung thân không xét giảm án hay việc quyết định hình phạt khi số lượng các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng chênh lệch nhau… Cụ thể:

- Thứ nhất, quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Bổ sung quy định về việc quyết định hình phạt trong trường hợp có sự chệnh lệch giữa các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS:

+ Trường hợp số tình tiết giảm nhẹ nhiều hơn số tình tiết tăng nặng là một thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt ở khoảng đầu của khung hình phạt1;

+ Trường hợp số tình tiết giảm nhẹ bằng số tình tiết tăng nặng thì quyết định một hình phạt ở khoảng giữa khung hình phạt2;

+ Trường hợp số tình tiết tăng nặng nhiều hơn số tình tiết giảm nhẹ là một thì quyết định một hình phạt ở khoảng cuối khung hình phạt3;

+ Trường hợp khi số tình tiết tăng nặng nhiều hơn số tình tiết giảm nhẹ từ hai trở lên thì quyết định một hình phạt ở mức cao nhất của khung hình phạt4.

Theo quan điểm của tác giả, việc BLHS (sửa đổi) bổ sung quy định này là phù hợp và cần thiết. Bởi lẽ, nếu như Điều 54 BLHS 2015 quy định rất chung chung chưa mang tính định lượng rõ ràng về sự chênh lệch số lượng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS làm căn cứ cho việc Tòa án quyết định mức hình phạt là ở khoảng đầu, giữa, cuối hay cao nhất của khung hình phạt dẫn đến việc áp dụng khác nhau giữa các Tòa, ảnh hưởng đến quyền lợi hay tính răn đe của pháp luật. Do đó, việc định lượng rõ ràng sự chênh lệch giữa các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS là cơ sở quyết định mức hình phạt tương ứng như Dự thảo là cần thiết và mức định lượng về sự chênh lệch đưa ra là phù hợp vừa bảo đảm tính răn đe cũng như tính có lợi cho bị cáo.

- Thứ hai, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. Bổ sung trường hợp, hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân không xét giảm án thì hình phạt chung là tù chung thân không xét giảm án5.

Quy định này phù hợp với việc bổ sung hình phạt mới là tù chung thân không xét giảm án trong hệ thống hình phạt chính.

- Thứ ba, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, ngoài trường hợp một người đang chấp hành bản án thì bổ sung thêm trường hợp người đó đã bị kết án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật (bản án có hiệu lực pháp luật những chưa được thi hành trong thực tế)6.

Theo quan điểm của tác giả, việc bổ sung quy định này là phù hợp và giải quyết được đòi hỏi của thực tế. Thực tế có nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật những vì các lý do khác nhau mà chưa được thi hành, do đó, việc quyết định hình phạt của Tòa án trong trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều bản án cũng cần phải tính cả hình phạt đã được tuyên trong bản án này nhằm bảo đảm việc tổng hợp hình phạt được chính xác, đầy đủ.

- Thứ tư, bỏ toàn bộ nội dung Chương XII: Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong đó có các nội dung liên quan đến quyết định hình phạt, tổng hợp hình phạt, miễn giảm hình phạt, xóa án tích vì những nội dung này đã được quy định tại Luật Tư pháp người chưa thành niên năm 2024. Các quy định về hình phạt, quyết định hình phạt với người chưa thành niên (người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi) được quy định trong Luật Tư pháp người chưa thành niên năm 2024 kế thừa nội dung của BLHS 2015 và có những điều chỉnh theo hướng cụ thể, chi tiết hơn nhưng cũng có những điểm cần nghiên cứu, chỉnh sửa7.

Kết luận

Trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, định tội danh và quyết định hình phạt là hai nội dung cơ bản, có ý nghĩa quan trọng đối với công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Dựa trên kết quả của việc định tội danh, Tòa án xem xét, đánh giá một cách tổng thể các căn cứ theo quy định của pháp luật, lấy quy định của BLHS về việc quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể làm cơ sở để đưa ra quyết định về hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, bảo đảm việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 

ThS. TRẦN QUANG HIẾU (Giảng viên Khoa Luật - Học viện An ninh nhân dân)

Tài liệu tham khảo

1. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

2. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3. Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), https://moha.gov.vn/vanban/Pages/van-ban-du-thao.aspx?ItemID=575.

4. Cục Đào tạo, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb. Lao Động, 2021.


1 Khoản 2a Điều 54 Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).

2 Khoản 2a Điều 54 Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).

3 Khoản 2a Điều 54 Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).

4 Khoản 2a Điều 54 Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).

5 Khoản c1 Điều 55 Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).

6 Khoản 1, 2 Điều 56 Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).

7 Mai Thị Thủy, Một số điểm mới trong quy định về hình phạt và quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội và kiến nghị hoàn thiện, https://tapchitoaan.vn/mot-so-diem-moi-trong-quy-dinh-ve-hinh-phat-va-quyet-dinh-hinh-phat-doi-voi-nguoi-chua-thanh-nien-pham-toi-va-kien-nghi-hoan-thien13495.html, truy cập ngày 10/6/2025.

Ảnh minh hoạ - Nguồn: Internet.