.jpg)
Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản - Vướng mắc và một số kiến nghị
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã mở rộng không gian hoạt động của con người lên không gian mạng. Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông xuất hiện, trở thành thách thức mang tính toàn cầu, đòi hỏi những quy định của pháp luật hình sự phải ghi nhận. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích dấu hiệu pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về “tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Từ đó, tác giả đưa ra đánh giá và khuyến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong việc phòng ngừa và xử lý tội phạm trên.
Đặt vấn đề
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư bùng nổ với hàng loạt công nghệ nền tảng, mang lại cho con người sự tiện nghi trong cuộc sống, sự thuận lợi trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, sự bùng nổ của khoa học công nghệ kéo theo sự xuất hiện của tội phạm ứng dụng công nghệ cao trong phương thức thực hiện, xâm phạm đến an toàn, trật tự công cộng. Tại Việt Nam, tội phạm sử dụng công nghệ cao chỉ mới xuất hiện, nhưng mức độ tinh vi, tính chất nguy hiểm và thiệt hại gây ra không kém các loại tội phạm truyền thống. Xuất phát từ thực trạng và hậu quả của nhóm tội phạm công nghệ cao, Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định nhóm tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông tại Mục 2 Chương XXI. Trong đó, “tội sử dụng mạng máy tính (MMT), mạng viễn thông (MVT), phương tiện điện tử (PTĐT) thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (CĐTS)” được quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015. Dưới góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng, tác giả phân tích, đánh giá và đưa ra khuyến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự (PLHS) về tội phạm này.
1. Khái quát về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
BLHS Việt Nam năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã quy định về “tội sử dụng MMT, MVT, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi CĐTS” tại Điều 226b. Khi BLHS năm 2015 ra đời, đã tiếp tục ghi nhận tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS và được tách ra thành một điều luật riêng biệt, quy định tại Điều 290.
Tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS có cấu thành tội phạm (CTTP) cơ bản bao gồm:
Thứ nhất, khách thể của tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS là quan hệ xâm phạm trật tự quản lý hành chính nhà nước, trật tự an toàn xã hội, cụ thể hơn là xâm phạm hoạt động bình thường của MMT, MVT, mạng Internet, môi trường giao dịch điện tử, hoạt động thương mại điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn tín dụng, mua bán và thanh toán cổ phiếu qua mạng.
Thứ hai, mặt khách quan của tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS thể hiện ở một trong các hành vi sau:
“a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản;
d) Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản;
e) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản”[1].
Thứ ba, chủ thể của tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS là người có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) bao gồm năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm theo luật định khi thực hiện hành vi phạm tội. Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ cá nhân nào đáp ứng đủ 02 điều kiện gồm: có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của PLHS.
Thứ tư, mặt chủ quan của tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS được coi là thực hiện với lỗi cố ý. Mục đích của người phạm tội là chiếm đoạt hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ (một dạng cụ thể của CĐTS).
Quy định về mức hình phạt của tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS bao gồm 04 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung. Mức cao nhất của khung hình phạt cơ bản là 03 năm tù. Ba khung hình phạt tăng nặng chủ yếu dựa vào dấu hiệu thiệt hại về tài sản được quy định như sau: phạt tù từ 02 năm đến 07 năm (khoản 2 Điều 290), phạt tù từ 07 năm đến 15 năm (khoản 3 Điều 290), phạt tù từ 12 năm đến 20 năm (khoản 4 Điều 290). Ngoài ra, điều luật còn quy định về hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
So với quy định tại Điều 226b BLHS năm 1999, thì BLHS năm 2015 đã tách thành một điều luật riêng là Điều 290, tạo sự rõ ràng trong quy định về nhóm tội công nghệ thông tin, MVT. Điều 290 BLHS năm 2015 đã bỏ dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng”, đồng thời, quy định cụ thể về hành vi và hậu quả, giúp việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử được nhanh chóng, chính xác. Tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS được bổ sung về dấu hiệu hành vi của người phạm tội bao gồm: lừa đảo trong thanh toán điện tử, kinh doanh đa cấp hoặc thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, Internet, nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng không thuộc trường hợp của tội trộm cắp tài sản và tội lừa đảo CĐTS. Nhóm tác giả nhận thấy, Điều 290 BLHS năm 2015 đã khắc phục những hạn chế của BLHS năm 1999 về tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS.
Điều 290 BLHS năm 2015 đã nêu: “nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này”. So sánh 04 dấu hiệu pháp lý của tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS với tội trộm cắp tài sản và tội lừa đảo CĐTS, nhóm tác giả nhận thấy, giữa các tội này có một số điểm tương đồng như: khách thể của tội phạm là quyền sở hữu tài sản của tổ chức, cá nhân; tội phạm đều được thể hiện ở dạng hành vi CĐTS; tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp… Tuy nhiên, cần phân biệt giữa các tội này để việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử được chính xác. Nhóm tác giả thấy rằng, các tội này khác nhau ở một số điểm sau:
(i) Khách thể của tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS ngoài xâm phạm quan hệ sở hữu, thì đồng thời xâm phạm an toàn hoạt động của MMT, MVT, PTĐT.
(ii) Tội trộm cắp tài sản được định nghĩa là hành vi lén lút CĐTS đang có người quản lý. Tuy nhiên, nếu dấu hiệu lén lút được thực hiện bằng MMT, MVT, PTĐT thì trở thành dấu hiệu của tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015.
(iii) Dấu hiệu gian dối nhằm CĐTS là điểm dùng để phân biệt giữa tội lừa đảo CĐTS với các tội khác. Nếu hành vi gian dối lại trùng với dấu hiệu của tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS, thì hành vi đó sẽ bị truy cứu về tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS theo Điều 290 BLHS năm 2015.
(iv) CTTP cơ bản của tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS không quy định về hậu quả thiệt hại tài sản. Do đó, đây là tội phạm có CTTP hình thức. Còn tội lừa đảo CĐTS thì hậu quả thiệt hại tài sản xuất hiện trong CTTP cơ bản nên đây là tội phạm có CTTP vật chất.
(v) Chủ thể của tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS so với tội lừa đảo CĐTS theo quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015 có sự khác nhau. Nếu người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi phạm tội thuộc các khoản 3, khoản 4 Điều 290 BLHS năm 2015 thì sẽ phải chịu TNHS. Tuy nhiên, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không bị truy cứu TNHS về tội lừa đảo CĐTS.
(vi) Khung hình phạt của các tội trên cũng có sự khác nhau. Đối với tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS, mức cao nhất của khung hình phạt tăng nặng là 20 năm tù. Còn đối với tội lừa đảo CĐTS, mức cao nhất của khung hình phạt tăng nặng là tù chung thân.
Đối với hành vi sử dụng công nghệ thông tin, MMT để thực hiện tội phạm dễ bị nhầm lẫn với các tội phạm “truyền thống”, điển hình là nhầm lẫn với tội trộm cắp tài sản (Điều 173) hoặc tội lừa đảo CĐTS (Điều 174) trong BLHS năm 2015. Nhóm tác giả đã tiến hành đối chiếu, chỉ ra một số điểm khác biệt, nhằm phân biệt giữa các tội trên trong quá trình áp dụng pháp luật.
2. Một số vướng mắc trong việc áp dụng quy định về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
BLHS được coi là công cụ sắc bén để đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, MVT. BLHS năm 2015 đã bổ sung, hoàn thiện quy định về tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, MVT. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định về loại tội này gặp phải một số vướng mắc.
Thứ nhất, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn nhầm lẫn khi định tội danh giữa tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS với tội trộm cắp tài sản và tội lừa đảo CĐTS.
Ví dụ 1: A và B cùng thuê trọ chung phòng với nhau. B đã lấy trộm thẻ ATM của A. Do biết được thông tin tài khoản và mật khẩu, nên B đã sử dụng thẻ ATM của A để rút tiền với số tiền 16.500.000 đồng. Việc xử lý hành vi của B và những hành vi tương tự như trên có hai quan điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, B phạm tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 BLHS năm 2015. Quan điểm này được thể hiện trong Bản án số 46/2018/HSST ngày 17/5/2018 của Tòa án nhân dân (TAND) thị xã PY, tỉnh N, xét xử bị cáo G về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015. Quan điểm này còn được thể hiện trong Cáo trạng số 57/KSĐT-KT ngày 11/9/2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh V truy tố Lê Thị H về tội trộm cắp tài sản.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, B phạm tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS. Quan điểm này được thể hiện trong Bản án số 11/2018/HSST ngày 19/01/2018 của TAND quận X, thành phố HC xét xử Nguyễn Ngọc Anh Q về hành vi trộm cắp 02 thẻ tín dụng, sau đó, thanh toán hàng hóa đã mua với số tiền 115.000.000 đồng theo điểm đ khoản 2 Điều 290 BLHS năm 2015; Bản án số 290/2017/HSPT ngày 20/4/2017 của TAND thành phố HN; Bản án số 59/2017/HSST ngày 28/9/2017 của TAND huyện B, tỉnh V.
Có thể thấy, trong các tình huống trên, các đối tượng đã sử dụng thông tin tài khoản là thông tin và mật khẩu thẻ ATM của nạn nhân để CĐTS. Việc lấy trộm được thẻ ATM của nạn nhân chỉ là bước đầu để có được thông tin tài khoản, chứ chưa chiếm đoạt được tài sản của nạn nhân. Do đó, tác giả nhận thấy, việc xác định các đối tượng trên đã sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS theo Điều 290 BLHS năm 2015 là phù hợp.
Ví dụ 2: Do không có tiền tiêu xài, nên Th nảy sinh ý định lừa đảo CĐTS bằng thủ đoạn gian dối như tải nhiều hình ảnh xe SH trên mạng, rồi đăng thông tin bán xe gắn máy giá rẻ lên các trang mạng Internet. Khi có khách hàng liên hệ mua xe, thì Th gửi hình ảnh xe cho khách và yêu cầu chuyển tiền vào tài khoản rồi chiếm đoạt. Ngày 04/12/2019, ông H liên lạc tài khoản Zalo của Th, thì Th chào bán 01 xe Honda SH150i với giá 39.000.000 đồng, bao gồm giấy chứng nhận đăng ký xe. Để ông H tin tưởng, Th tải nhiều hình ảnh xe máy SH trên mạng gửi cho ông H. Đồng thời, cung cấp số tài khoản và yêu cầu ông H đặt cọc số tiền 5.000.000 đồng. Ông H tưởng thật, nên đã đến ngân hàng chuyển số tiền 5.000.000 đồng vào tài khoản trên. Sau khi nhận tiền đặt cọc, để tiếp tục tạo lòng tin, Th yêu cầu ông H chụp hình chứng minh nhân dân gửi cho Th để làm giấy đăng ký xe và sau đó, yêu cầu ông H chuyển tiếp số tiền còn lại rồi giao xe. Tuy nhiên, ông H không đồng ý và đòi lại số tiền cọc, thì Th chặn liên lạc và chiếm đoạt số tiền 5.000.000 đồng[2].
Bản án số 349/2020/HS-PT ngày 29/07/2020 về tội lừa đảo CĐTS, theo bản án sơ thẩm, bị cáo đã bị tuyên xử với tội danh “lừa đảo CĐTS”, thế nhưng sau đó, Viện kiểm sát đã kháng nghị theo hướng sửa đổi việc định tội danh thành “sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS” theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015.
Điểm d khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015 quy định: “Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản”. Theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC ngày 10/9/2012 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông, hành vi lừa đảo trong thương mại điện tử là việc sử dụng thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin sai sự thật về một sản phẩm, lĩnh vực trong thương mại điện tử, để mua bán trên mạng, nhằm tạo niềm tin cho người chủ tài sản, người quản lý tài sản, làm cho họ tưởng là thật và mua, bán hoặc đầu tư vào lĩnh vực đó. Xét về hành vi phạm tội của Th, Th không phải là chủ thể kinh doanh thường xuyên trên mạng, cũng như không có tài sản, hàng hóa để mua, bán trên mạng, mà ngay từ đầu, Th đã dùng thủ đoạn gian dối. Bằng những thủ đoạn này, Th đã chiếm đoạt của ông H 5.000.000 đồng. Tội phạm về lừa đảo cũng đã hoàn thành, do đó, đủ yếu tố cấu thành tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015. Mặt khác, theo khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015, khi hành vi của bị cáo không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 174, thì mới xử lý về “tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS”. Như vậy, hành vi của bị cáo Th không thỏa mãn bất kỳ dạng hành vi nào của tội danh mà Viện kiểm sát đã xác định.
Thứ hai, hình phạt quy định tại Điều 290 BLHS năm 2015 nhẹ hơn so với hình phạt quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015.
Theo khoản 4 Điều 290 BLHS năm 2015 quy định hình phạt cao nhất đối với tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS chỉ là 20 năm tù. Còn theo khoản 4 Điều 174 BLHS năm 2015, thì hình phạt cao nhất đối với tội lừa đảo CĐTS là tù chung thân. Điều này không phù hợp với thực tế, vì cùng chiếm đoạt từ 500.000.000 đồng trở lên nhưng tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS có tính chất nguy hiểm hơn. Một số văn bản quốc tế cũng quy định theo hướng này, coi việc sử dụng MMT, MVT, PTĐT để thực hiện tội phạm là tình tiết tăng nặng TNHS. Ví dụ, tại Điều 21 Công ước phòng, chống tội phạm công nghệ thông tin các nước Ả-rập quy định: “Mỗi Quốc gia thành viên phải cam kết tăng hình phạt đối với các tội phạm truyền thống khi chúng được thực hiện bằng công nghệ thông tin”[3].
Thứ ba, việc quy định nội dung loại trừ tại khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015 “nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174” còn gây ra hiểu nhầm trong việc định tội.
Điều 290, Điều 173 và Điều 174 đều là điều luật riêng so với điều luật chung. CTTP tại khoản 1 Điều 290 là CTTP riêng trong một lĩnh vực; trong khi đó CTTP tại Điều 173 và Điều 174 là CTTP chung. Theo nguyên tắc áp dụng pháp luật, trường hợp vừa thỏa mãn CTTP của tội chung, cũng như của tội riêng, thì áp dụng điều luật riêng. Theo đó, khi một hành vi phạm tội đã thỏa mãn CTTP theo khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015, thì đồng thời có thể thỏa mãn CTTP theo Điều 173 hoặc Điều 174 BLHS năm 2015. Nhưng CTTP theo khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015 đã phản ánh đúng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và do vậy, người có hành vi phạm tội chỉ bị coi là phạm một tội theo Điều 290 BLHS năm 2015 về “tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS”.
Thứ tư, các bản án hay quyết định của Tòa án khi phân tích cấu thành của tội phạm tại Điều 290 BLHS năm 2015 thường không thể hiện rõ ràng khách thể của tội phạm.
Theo phần nhận định của Bản án số 08/2022/HS-PT ngày 19/01/2022 của TAND thành phố ĐN, “hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội”[4] hay tại Bản án số 108/2019/HSPT ngày 10/4/2019 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng thì Hội đồng xét xử nhận định rằng: “hành vi phạm tội của Phan Chí T là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, gây nhiều dư luận xấu trong nhân dân”[5]. Có thể thấy, các bản án trên chỉ ghi nhận một cách chung chung rằng, hành vi trên xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong khi khách thể của Điều 290 BLHS năm 2015 là xâm phạm hoạt động bình thường của MMT, MVT, mạng Internet, môi trường giao dịch điện tử, hoạt động thương mại điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn tín dụng, mua bán và thanh toán cổ phiếu qua mạng. Do đó, khi nhận định về khách thể của tội phạm một cách không cụ thể, thì vô hình trung đang gây hiểu lầm cho rằng đây là loại tội phạm thuộc Chương XVI quy định các tội xâm phạm sở hữu.
3. Kiến nghị hoàn thiện quy định về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Nhóm tác giả đề xuất một số khuyến nghị sau:
Thứ nhất, sửa đổi CTTP cơ bản của tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS theo hướng bỏ cụm từ “nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này”. Cụm từ này vừa không cần thiết, vừa quy định ngược. Nếu người phạm tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT để thực hiện hành vi CĐTS thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015, thì hoàn toàn thỏa mãn các dấu hiệu của tội danh này. Nếu không thỏa mãn yếu tố cấu thành của tội này, nhưng thỏa mãn CTTP quy định tại Điều 173 hoặc Điều 174 BLHS năm 2015 thì xử lý về tội trộm cắp tài sản hoặc tội lừa đảo CĐTS.
Thứ hai, sửa đổi tăng mức cao nhất của khung hình phạt lên tù chung thân đối với tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS. Mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội này hiện nay là 20 năm tù (khoản 4 Điều 290). Việc sử dụng MMT, MVT, PTĐT để thực hiện tội phạm làm cho tính chất của hành vi đó sẽ nguy hiểm hơn so với tội phạm thông thường. Do đó, nhóm tác giả đề nghị sửa đổi hình phạt tại khoản 4 Điều 290 BLHS năm 2015 lên mức cao nhất là tù chung thân.
Thứ ba, tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn về công nghệ thông tin, MVT của người tiến hành tố tụng trong lĩnh vực hình sự. Nhóm tác giả nhận thấy, cần tăng cường nghiên cứu, trao đổi về lý luận, nghiệp vụ trong việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm công nghệ cao nói chung, tội phạm sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS nói riêng; tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ điều tra, kiểm sát, Thẩm phán chuyên sâu về công nghệ thông tin, MVT. Kinh nghiệm một số nước chỉ ra rằng, việc người tiến hành tố tụng là chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin, MVT sẽ giúp việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm công nghệ cao được nhanh chóng và chính xác. Chẳng hạn, tại Singapore, kể từ khi tội phạm sử dụng công nghệ cao lần đầu bị truy tố ra trước Tòa trong những năm 1990, Viện Công tố Singapore luôn tìm hiểu, phát hiện những công tố viên có tố chất, đặc biệt đam mê, am hiểu trong lĩnh vực công nghệ, từ đó xây dựng đội ngũ công tố viên phù hợp cho việc xử lý loại tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các chuyên gia trong lĩnh vực an ninh mạng sẽ được mời tham gia vụ án để góp phần đẩy nhanh tiến độ giải quyết một cách chính xác và hiệu quả[6].
Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống và xử lý tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, MVT. Nhóm tác giả đề xuất cần nghiên cứu, trao đổi, học tập kinh nghiệm từ các nước có hệ thống pháp luật về hình sự trong lĩnh vực công nghệ thông tin, MVT hoàn thiện, áp dụng những quy định của các nước phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam. Đồng thời, cần hợp tác đào tạo, trao đổi cán bộ, tương trợ tư pháp để công tác phòng, chống và xử lý tội phạm công nghệ cao được hiệu quả hơn.
Kết luận
Sự xuất hiện của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, MVT đã đặt ra những yêu cầu nhất định trong xây dựng và áp dụng pháp luật về hình sự. Qua phân tích dấu hiệu pháp lý và hình phạt, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự về tội sử dụng MMT, MVT, PTĐT thực hiện hành vi CĐTS, nhóm tác giả đã chỉ ra những vướng mắc, hạn chế. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất bốn nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả trong công tác áp dụng pháp luật về loại tội phạm này.
Tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm (Quyển 1), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2018.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm (Quyển 2), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2019.
3. Phan Chí Hiếu, Nguyễn Văn Cương, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề pháp lý đặt ra, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2019.
4. Nguyễn Quý Khuyến, Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, năm 2021.
[1] Khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015.
[2] Bản án số 349/2020/HS-PT ngày 29/07/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-3492020hspt-ngay-29072020-ve-toi-lua-dao-chiem-doat-tai-san-160695, truy cập ngày 23/5/2024.
[3] Article 21: Increasing Punishment for Traditional Crimes Committed by Means of Information Technology
“Every State Party shall commit itself to increasing the punishment for traditional crimes when they are committed by means of information technology”
[4] Bản án số 08/2022/HS-PT ngày 19/01/2022 của TAND thành phố Đà Nẵng, https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta831556t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 15/12/2023.
[5] Bản án số 108/2019/HSPT ngày 10/4/2019 của TANDCC tại Đà Nẵng, https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta271841t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 15/12/2023.
[6] Nguyễn Đức Hà, Kinh nghiệm truy tố tội phạm sử dụng công nghệ cao của Viện Công tố Singapore, https://kiemsat.vn/kinh-nghiem-truy-to-toi-pham-su-dung-cong-nghe-cao-cua-vien-cong-to-singapore-50807.html, truy cập ngày 16/7/2024.
CA thành phố Đà Nẵng bắt nhóm đối tượng lừa đảo, chiếm đoạt tài sản qua mạng - Ảnh: Nguyên Hưng.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Đề xuất mô hình Tòa án 3 cấp khi bỏ đơn vị hành chính cấp huyện
-
Trao đổi ý kiến về bài viết “bên đặt cọc hay bên nhận đặt cọc có lỗi?”
-
Không áp dụng một số tình tiết giảm nhẹ đối với Tạ Tấn P
-
Người vay dùng tiền lừa đảo để trả nợ, người cho vay có trách nhiệm trả lại không?
-
Người khởi kiện có bắt buộc xác nhận địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện hay không?
Bình luận