Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong Bộ luật hình sự năm 2015, một số bất cập và kiến nghị
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ hiện nay, tình hình tội phạm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, đang có những diễn biến phức tạp. Do vậy đòi hỏi phải có những quy định pháp luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp được chặt chẽ và hoàn thiện. Bài viết sẽ phân tích, làm rõ và chỉ ra các điểm vướng mắc, bất cập về “tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” được quy định tại Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015, từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Đặt vấn đề
Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, từ năm 2014 đến năm 2019, có 08 vụ; từ năm 2020 đến năm 2025, có 32 vụ án được đưa ra xét xử về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (QSHCN)[1].
Theo đó, có thể thấy số vụ phạm tội xâm phạm QSHCN được xét xử chiếm tỷ lệ rất thấp. Trên thực tế, tuy hệ thống pháp luật về xử lý hành vi xâm phạm QSHCN đã được xây dựng và thực thi một thời gian nhưng tình trạng xâm phạm QSHCN đối với nhãn hiệu vẫn không ngừng gia tăng. Mặc dù, các biện pháp hành chính, dân sự, thương mại đã phát huy được những tác dụng tích cực trong hạn chế các vi phạm về QSHCN; tuy nhiên, thực tiễn cho thấy những hình thức này chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn hành vi xâm phạm. Do đó, đối với một số trường hợp đòi hỏi phải có biện pháp hình sự mạnh mẽ hơn để xử lý những hành vi xâm phạm nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành các quy định trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho thấy vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu và hoàn thiện.
1. Khát quát chung về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp là một trong các quyền quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ (SHTT). Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2022) (Luật SHTT) thì quyền sở hữu công nghiệp: “là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”.
Trong BLHS, tội xâm phạm QSHCN được quy định tại Điều 226: “người nào cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam mà đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý với quy mô thương mại hoặc nhằm thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại với chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm”.
Khách thể của tội phạm:
Hành vi xâm phạm QSHCN đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở về bảo hộ QSHCN đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam, đối tượng tác động là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc hàng hóa giả mạo chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam, cụ thể về khái niệm hai loại hàng hóa này đã được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 213 Luật SHTT.
Mặt khách quan của tội phạm:
Người phạm tội có hành vi xâm phạm QSHCN đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam, các hành vi xâm phạm có thể là những hành vi chiếm đoạt hoặc là hành vi sử dụng bất hợp pháp nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam, ngoài ra phạm vi các hành vi xâm phạm QSHCN đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý được quy định tại Điều 129 Luật SHTT, cụ thể đó có thể là các dạng hành vi như sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ tương tự… hoặc sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm mặc dù có nguồn gốc xuất xử từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý nhưng sản phẩm đó không đáp ứng các tiêu chuẩn về tính chất, chất lượng đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý.
Các hành vi xâm phạm trên bị coi là tội phạm nếu thực hiện với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội này là bất kì người nào có năng lực chịu trách nhiệm hình sự. độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 BLHS, ngoài ra còn có pháp nhân thương mại cũng phải chịu trách nhiệm hình sự nếu thỏa mãn các dấu hiệu đã được quy định.
Mặt chủ quan của tội phạm:
Người phạm nhận thức rõ hành vi xâm phạm sẽ gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức sở hữu đối tượng QSHCN đối với nhãn hiệu hay chỉ dẫn địa lý nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi xâm phạm.
2. Một số bất cập trong tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
2.1. Khó khăn trong vấn đề xác định đối tượng tác động của tội phạm
Quá trình nghiên cứu vấn đề này, nhóm tác giả chúng tôi xét thấy đây là một trong số các yếu tố quan trọng trong việc xác định tội danh mà người phạm tội đã thực hiện, bởi đối tượng tác động của tội xâm phạm QSHCN có sự tương đồng với tội sản xuất, buôn bán hàng giả quy định tại Điều 192 BLHS.
Nhóm tác giả nhấn mạnh yếu tố “vẫn còn có sự tương đồng” là bởi trước đây Nghị định số 08/2013/NĐ-CP ngày 10/01/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP) có giải thích rõ về thuật ngữ “hàng giả” trong tội sản xuất, buôn bán hàng giả, và trong đó có đề cập đến loại hàng giả là “hàng giả về sở hữu trí tuệ”, có thể thấy việc đưa loại hàng giả trên vào một trong các loại hàng giả được quy định trong các nghị định đã được liệt kê trên đã gây không ít sự khó khăn trong việc xác định các cấu thành của tội xâm phạm QSHCN. Tuy nhiên theo Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì loại hàng giả về sở hữu trí tuệ đã được loại bỏ để khắc phục tình trạng khó khăn trong xác định tội danh nhưng nhóm tác giả chúng tôi xét thấy vẫn còn yếu tố có thể gây khó khăn trong quá trình xác định đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cụ thể:
Thứ nhất, trong các loại hàng giả mà Nghị định số 98/2020/NĐ-CP đã liệt kê thì vừa có loại hàng giả về nội dung quy định từ điểm a đến điểm d và loại hàng giả về hình thức là các điểm còn lại, trong khi đó trong tội xâm phạm QSHCN thì đối tượng tác động là hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý tức gọi chung là hàng hóa giả mạo về hình thức, có thể thấy được, đang có sự tương đồng giữa loại hàng giả về hình thức với đối tượng tác động của tội xâm phạm QSHCN và nếu không thể xác định rõ vấn đề này thì việc định tội danh sai là điều không thể trách khỏi dẫn đến việc áp dụng các biện áp hình sự sẽ không tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
Thứ hai, kể cả việc nếu chúng ta ban hành văn bản hướng dẫn phân biệt hàng giả về hình thức và hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý nhưng trên thực tế chúng ta không thể tránh khỏi trường hợp hàng hóa vi phạm giả mạo về cả nội dung và vừa cả hình thức (hình thức trong trường hợp đối với hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý), như vậy việc định tội danh trong trường này cần được hướng dẫn cụ thể hơn.
2.2. Cần giải rõ dấu hiệu quy mô thương mại
Thuật ngữ “quy mô thương mại” là dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội phạm (CTTP ) của các tội xâm phạm SHTT nói chung và tội xâm phạm QSHCN nói riêng, đây là thuật ngữ xuất hiện trong Hiệp định TRIPS, là một trong các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mà Việt Nam chúng ta là thành viên từ ngày 11/01/2007.
Theo tinh thần của Điều 61 Hiệp định TRIPS thì yêu cầu đặt ra cho Việt Nam chúng ta là phải cụ thể hóa quy định của Hiệp định này vào trong các quy định pháp luật trong nước, phải xác định rõ hành vi vi phạm QSHCN (SHCN) với “quy mô thương mại” là như thế nào để từ đó áp dụng các chế tài phù hợp với hành vi. Từ thực tiễn nghiên cứu cho thấy, Việt Nam bước đầu đã làm rất tốt trong việc cụ thể hoá được yêu cầu của Hiệp định TRIPS vào các quy định pháp luật trong nước. Tuy nhiên việc giải thích thuật ngữ “quy mô thương mại” lại đang là điểm yếu và chưa có dấu hiệu hoàn thiện vấn đề này, cụ thể:
Thứ nhất, chưa có một văn bản nào giải thích cụ thể dấu hiệu “quy mô thương mại”, mặc dù sau khi tham gia vào hiệp định TRIPS thì vào ngày 29/02/2008, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp đã phối hợp và ban hành Thông tư liên tịch số 01/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTC-BTP hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, tuy nhiên nhóm tác giả chúng tôi xét thấy rằng việc hướng dẫn chưa thực sự hiệu quả bởi theo thông tư thì “quy mô thương mại” được diễn giải thành “quy mô và mục đích thương mại” và sự diễn giải này không kèm theo bất kỳ định nghĩa nào khác.
Thứ hai, thậm chí khó hiểu hơn đó là việc giải thích chỉ áp dụng cho tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan còn tội xâm phạm QSHCN lại không thấy dấu hiệu nào liên quan đến giải thích thuật ngữ này. Ngoài ra cho đến khi BLHS năm 2015 được ban hành, tội xâm phạm quyền SHCN đã có nhiều sự thay đổi so với BLHS năm 1999, nhưng vẫn không có văn bản nào hướng dẫn chi tiết. Như vậy có thể thấy việc giải thích thuật ngữ “quy mô thương mại” dù là BLHS năm 1999 hay BLHS hiện hành thì vẫn đang gây khó khăn rất lớn đối trong quá trình áp dụng quy định này.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
3.1. Đối với vấn đề xác định đối tượng tác động của tội phạm
Thứ nhất, đối với vấn đề đang có sự trùng lặp giữa loại hàng giả về hình thức với hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý thì nhóm tác giả đề xuất nên ban hành thêm văn bản hướng dẫn, cũng như đưa các tiêu chỉ để phân biệt vấn đề trên, thậm chí có thể ban hành văn bản hướng dẫn giữa các tội có cùng tính chất với tội xâm phạm QSHCN bởi xét thấy rằng nếu phân biệt được thì bất cập giữa tội xâm phạm QSHCN với tội sản xuất, buôn bán hàng giả cũng như các tội khác sẽ có tách biệt hoàn toàn, từ đó quá trình định tội danh sẽ giảm bớt sự khó khăn.
Thứ hai, trong quá trình định tội danh,nếu xét thấy vừa có hành vi làm giả về nội dung của hàng hóa và vừa có dấu hiệu của hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hay chỉ dẫn địa lý, trước hết chúng ta có thể thấy tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi cao hơn so với trường hợp chỉ giả về nội dung hay giả mạo về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý vì vậy sẽ có hai hướng giải quyết như sau [2]:
Hướng thứ nhất, nên định tội danh cả hai tội đó là tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm QSHCN.
Hướng thứ hai, quy định dấu hiệu xâm phạm QSHCN thành dấu hiệu định khung tăng nặng hình phạt trong các tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Nhóm tác giả chúng tôi đồng ý với hướng xử lý thứ hai này bởi hình phạt trong các tội sản xuất, buôn bán hàng giả cao hơn nhiều so với tội xâm phạm QSHCN, từ đó việc định tội danh sẽ phù hợp hơn với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đã gây ra, ngoài ra hướng xử lý này không còn xa lạ gì với kỹ thuật lập pháp của pháp luật hình sự Việt Nam bởi trong BLHS, việc chuyển tội danh độc lập thành một trường hợp cấu thành tội phạm tăng nặng của một tội khác đã xuất hiện nhiều trong các nhóm tội khác của BLHS.
3.2. Đối với thuật ngữ “quy mô thương mại”
Từ những bất cập trong việc giải thích dấu hiệu “quy mô thương mại” đã phân tích ở trên, nhóm tác giả chúng tôi cho rằng cần kiến nghị ban hành văn bản giải thích rõ dấu hiệu này thậm chí chúng ta có thể tham khảo theo hướng quy định của CTPPT (Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) đồng thời chỉnh sửa sao cho phù hợp với quy định của pháp luật hình sự Việt Nam cụ thể nhóm tác giả chúng tôi đề xuất “quy mô thương mại” được hiểu bao gồm một trong các ý sau[3]:
Là các hành vi được tiến hành để đạt được lợi thế thương mại nhằm thu lợi tài chính (nhưng đồng thời cần ban hành văn bản hướng dẫn dấu hiệu “ nhằm đạt được lợi thế thương mại”).
Gây thiệt hại cho chủ thể có quyền từ … triệu đồng trở lên.
Hoặc hàng hóa vi phạm có giá trị từ … triệu đồng trở lên.
KẾT LUẬN
Tóm lại trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, việc hoàn thiện pháp luật hình sự để xử lý hiệu quả các hành vi xâm phạm QSHCN không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là một cam kết đối với công đồng quốc tế. Từ phân tích thực trạng, nhóm tác giả đã nhận diện được các bất cập về định nghĩa, dấu hiệu pháp lý cũng như sự chồng chéo trong quy định pháp luật hiện hành. Các kiến nghị được đưa ra, bao gồm việc ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết hơn và điều chỉnh một số quy định để phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm đảm bảo tính khả thi và công bằng trong áp dụng pháp luật. Việc xử lý nghiêm minh các hành vi xâm phạm không chỉ bảo vệ quyền lợi của các chủ thể sáng tạo mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Đồng thời, sự hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này sẽ là nền tảng để Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế trong hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh, minh bạch.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
2. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022).
3. Mai Thị Thanh Nhung, Một số vướng mắc, hạn chế trong xác định dấu hiệu định tội đối với các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam, Tạp Chí Nghề Luật, số 02/2022,tr. 64-69, https://hocvientuphap.edu.vn/tapchingheluat/Lists/CacSoDaXuatBan/Attachments/181/Tap%20chi%20Nghe%20luat%20so%2002%202022.pdf.
4. Nguyễn Văn Tùng, Tăng cường giải thích quy định của BLHS liên quan đến các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, Tạp Chí Khoa Học Trường Đại Học Mở Hà Nội, số 99/2023, tr.76-84, https://jshou.edu.vn/houjs/article/view/215.
5. Khôi Nguyễn, Quy mô thương mại theo quy định của hiệp định TRIPS và quy định của pháp luật Việt Nam,
https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thong-tin-khac.aspx?ItemID=1125, truy cập ngày 05/01/2024.
6. Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTTP).
7. Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (AGREEMENT ON TRADE – RELATED ASPECTS OF IPR - TRIPS).
[1] Theo số liệu từ Vụ Thống kê - Tổng hợp Tòa án nhân dân tối cao
[2] Mai Thị Thanh Nhung, Các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ theo pháp luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã Hội, 2022, tr.154-155.
[3] Mai Thị Thanh Nhung, Tlđd, tr.157.
Kiểm sát việc thi hành các quyết định tố tụng trong vụ án xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp - Ảnh: CA Hà Nam.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp đoàn đại biểu kiều bào tham dự Chương trình "Xuân Quê hương 2025"
-
Hành vi chiếm đoạt của Lê Hoàng D phạm “tội cướp tài sản” theo điểm b khoản 3 Điều 168 BLHS năm 2015
-
Tòa tuyên án với 17 bị cáo trong vụ án "chuyến bay giải cứu" giai đoạn 2
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
-
Bổ sung 6 dự án luật vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025
Bình luận