Trả tự do cho bị cáo theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo đang bị tạm giam được trả tự do ngay tại phiên tòa nếu thuộc một trong các trường hợp luật định. Tuy nhiên, trong thực tiễn phát sinh nhiều tình huống phải trả tự do ngay cho bị cáo tại phiên toà nhưng không thuộc một trong các trường hợp nêu trên, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật.

1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và một số vướng mắc, bất cập về việc trả tự do cho bị cáo

Thứ nhất, về các trường hợp trả tự do

Theo Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Trong các trường hợp sau đây, Hội đồng xét xử phải tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo đang bị tạm giam, nếu họ không bị tạm giam về một tội phạm khác:

1. Bị cáo không có tội;

2. Bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự hoặc được miễn hình phạt;

3. Bị cáo bị xử phạt bằng hình phạt không phải là hình phạt tù;

4. Bị cáo bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo;

5. Thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam.”

Tuy nhiên, thực tiễn xảy ra trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị cáo. Sau đó, bị hại rút yêu cầu khởi tố thì được giải quyết theo  quy định tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau: “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.”.

Theo tinh thần hướng dẫn tại Công văn 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tối cao thì khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ vụ án; cụ thể: Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155, Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm: Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.

Theo danh mục các biểu mẫu ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn, khi đình chỉ vụ án thì nội dung của quyết định ghi hậu quả pháp lý của việc đình chỉ vụ án (việc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, trả lại đồ vật, tài liệu đã tạm giữ (nếu có) và những vấn đề khác có liên quan).

Theo nội dung quyết định đình chỉ vụ án trên, thì việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo đang tạm giam được xem là giải quyết hậu quả pháp lý của việc đình chỉ vụ án mà không sử dụng thuật ngữ pháp lý trả tự do cho bị cáo.

Trong khi đó, nhiều trường hợp hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tại Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự giống với các trường hợp trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa quy định tại Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng không sử dụng thuật ngữ là trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa như: Bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt không phải là hình phạt tù (hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ).

Suy cho cùng của việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị cáo khi vụ án được đình chỉ theo quy định tại Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự với trường hợp trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa theo Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự là giống nhau nhưng căn cứ pháp lý áp dụng lại khác nhau nên cần thiết sửa đổi, bổ sung Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự để đảm bảo tính thống nhất trong quy định của pháp luật.

Thứ hai, về thời hạn trả tự do

Trường hợp Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Hội đồng xét xử trả tự do ngay cho bị cáo tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Trường hợp Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 282 Bộ luật Tố tụng hình sự để đình chỉ vụ án và hủy bỏ biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với bị cáo thì theo quy định tại Điều 333 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự thì: “Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm là 07 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định; Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định”. Như vậy trong khoảng thời gian này Tòa án có trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa hay phải chờ hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định đình chỉ vụ án trong trường hợp người bị hại rút yêu cầu khởi tố theo quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự thì mới trả tự do cho bị cáo. Vấn đề này, hiện nay trong thực tiễn xét xử còn nhiều cách hiểu và áp dụng thiếu thống nhất.

Thứ ba, về thẩm quyền quyết định

Theo Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự, nếu thuộc các trường hợp quy định tại Điều luật này thì Hội đồng xét xử tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo đang bị tạm giam nếu họ không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 282 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định:

“1. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 hoặc các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 của Bộ luật này…”

Điều luật không đề cập đến thẩm quyền đình chỉ vụ án của Hội đồng xét xử, cũng như hậu quả pháp lý của việc đình chỉ vụ án. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, Hội đồng xét xử phải căn cứ vào quy định này để đình chỉ vụ án và hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị cáo. Điều này dẫn đến thực tiễn áp dụng pháp luật có nhiều luồng ý kiến khác nhau.

Luồng ý kiến thứ nhất cho rằng, trong trường hợp này Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án mới có thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam vì Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định đình chỉ vụ án là căn cứ trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa. Trong trường hợp này Tòa án phải áp dụng quy định tại điểm b khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự để hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị cáo. Quy định này được sắp xếp, bố trí trước chương XXI của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 299 Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định rõ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam có được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng nghị án không?

Luồng ý kiến thứ hai cho rằng, Điều 299 Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định cụ thể Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng nghị án việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam nói riêng, biện pháp ngăn chặn nói chung mà tất cả các vấn đề liên quan đến vụ án phải được Hội đồng xét xử thông qua tại phòng nghị án. Do đó, khi đình chỉ vụ án, Hội đồng xét xử không chỉ thảo luận giải quyết việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo mà cả vấn đề xử lý vật chứng vụ án, trách nhiệm bồi thường thiệt hại …

Chúng tôi đồng ý với luồng ý kiến thứ hai, thẩm quyền đình chỉ vụ án trong trường hợp này thuộc về Hội đồng xét xử nên việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị cáo cũng phải do Hội đồng xét xử quyết định mới đảm bảo tính thống nhất trong áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, cũng như các biểu mẫu hướng dẫn trong tố tụng hình sự lại không quy định, hướng dẫn rõ ràng.

2. Kiến nghị, đề xuất

Chúng tôi cho rằng, để khắc phục những vướng mắc, bất cập nêu trên, cần sửa đổi, bổ sung vào Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự nội dung trả tự do cho bị cáo khi Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ vụ án.

Theo đó Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự sẽ được viết lại là:

“Điều 328. Trả tự do cho bị cáo

Trong các trường hợp sau đây, Hội đồng xét xử phải tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo đang bị tạm giam, nếu họ không bị tạm giam về một tội phạm khác:

1. Bị cáo không có tội;

2. Đình chỉ vụ án.

Trường hợp vụ án có nhiều bị cáo mà căn cứ để đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả bị cáo thì có thể đình chỉ vụ án đối với từng bị cáo.

3. Bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự hoặc được miễn hình phạt;

4. Bị cáo bị xử phạt bằng hình phạt không phải là hình phạt tù;

5. Bị cáo bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo;

6. Thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam”.

ThS. TRẦN ANH LIÊM (Tòa án nhân dân khu vực 9 - Đà Nẵng)

TAND huyện Tân Uyên, Lai Châu xét xử vụ án hình sự - Ảnh: Phương Thảo.