.jpg)
Trần Thị T phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản
(TCTA) - Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử có đăng bài “Xác định giá trị tài sản chiếm đoạt làm căn cứ định khung hình phạt như thế nào cho đúng?” ngày 05/02/2025 của tác giả Nguyễn Xuân Kỳ (Toà án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5). Qua nghiên cứu nội dung vụ án, chúng tôi cho rằng Trần Thị T phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 353 BLHS năm 2015 với số tiền đã chiếm đoạt được là 132.567.000 đồng.
Thứ nhất, về việc định tội danh đối với Trần Thị T
Về chủ thể của tội phạm
Khoản 1 Điều 353 BLHS năm 2015 quy định: “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”. Dựa theo quy định này, có thể thấy, chủ thể của tội phạm tham ô tài sản là chủ thể đặc biệt, cụ thể phải là người có chức vụ, quyền hạn và có trách nhiệm quản lý tài sản.
Trong khi đó, khoản 2 Điều 352 BLHS năm 2015 quy định: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”. Ở đây, người do bổ nhiệm, do bầu cử được xác định là cán bộ, công chức được quy định tại Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008. Ngoài những cán bộ, công chức ra thì người có chức vụ còn là những người do hợp đồng hoặc do một hình thức khác. Những người này tuy không phải là cán bộ, công chức, họ chỉ được các cơ quan trong và ngoài khu vực nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ký hợp đồng làm một công việc nhất định thường xuyên hay theo thời vụ hoặc trong một khoảng thời gian nhất định. Những người này cũng được coi là người có chức vụ, quyền hạn. Về trách nhiệm quản lý tài sản, trách nhiệm này có được do có chức vụ hoặc do đảm nhiệm những chức trách công tác nhất định, trách nhiệm quản lý tài sản cần được phân biệt rõ ràng với trách nhiệm bảo vệ đơn thuần của người làm công việc bảo vệ tại các cơ quan, tổ chức.
Trong vụ án này, Trần Thị T ký hợp đồng hợp tác kinh doanh trong thời gian 01 năm với Chi nhánh Bưu chính Viettel tỉnh D, thuộc Tổng Công ty cổ phần Bưu chính Viettel (sau đây viết tắt là Viettel Post tỉnh D). Theo nội dung hợp đồng: “Trần Thị T thực hiện việc tư vấn, giới thiệu sản phẩm dịch vụ viễn thông của Viettel và thu tiền cước các khách hàng trên địa bàn xã H, huyện V, tỉnh D. Sau khi thu tiền cước, Trần Thị T có trách nhiệm nhập thông tin khách hàng vào hệ thống quản lý và nộp đầy đủ số tiền cước đã thu vào tài khoản của Viettel Post tỉnh D trước 10 giờ ngày kế tiếp ngày thu tiền để đăng ký gói cước sử dụng dịch vụ cho khách hàng thông qua User được Viettel Post tỉnh D cấp trên ứng dụng MBCCS”.
Dựa theo dữ liệu này, có thể đưa ra nhận định hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa T và Viettel Post tỉnh D là một dạng “hợp đồng lao động ngắn hạn”, nên T được xác định là nhân viên lao động có thời hạn của Viettel Post tỉnh D. T thông qua hợp đồng đã được Viettel Post tỉnh D giao cho nhiệm vụ và quyền hạn trong việc tư vấn, giới thiệu sản phẩm dịch vụ viễn thông của Viettel và thu tiền cước các khách hàng trên địa bàn xã H, huyện V, tỉnh D. Khi nhận được tiền cước của khách hàng, T có trách nhiệm quản lý số tiền trên và chậm nhất đến 10 giờ sáng ngày hôm sau ngày thu tiền T phải nộp đầy đủ số tiền cước đã thu vào tài khoản của Viettel Post tỉnh D. T được đảm nhiệm công việc có tính độc lập đó là công việc tạo ra cho người được giao mối quan hệ cũng như trách nhiệm với khối lượng tài sản nhất định trong khoảng thời gian nhất định. Chính vì vậy, có thể xác định Trần Thị T thỏa mãn dấu hiệu chủ thể đặc biệt của tội tham ô tài sản.
Về khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm tham ô tài sản là những quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động bình thường, đúng đắn của các cơ quan, tổ chức trong nhà nước và của cả các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước; do người có chức vụ, quyền hạn làm trái các nguyên tắc, chính sách, chức trách, chế độ quản lý tài sản thuộc lĩnh vực công tác mà mình phụ trách và qua đó chiếm đoạt tài sản. Tài sản này bao gồm tài sản của nhà nước giao cho các cơ quan, tổ chức trong nhà nước hoặc là tài sản của các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước.
Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức là những hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ do pháp luật hoặc điều lệ quy định, những hoạt động này nhằm thực hiện chức năng và mục đích đã đề ra. Ví dụ, theo quy định của pháp luật thì cán bộ, công chức không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, nhưng trong cơ quan nào đó có cán bộ đã tham ô tài sản, nhận hối lộ,... là đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đó. Trong vụ việc này, T đã lợi dụng quyền hạn trong việc quản lý tài sản (tiền cước dịch vụ thu được của các khách hàng trên địa bàn xã H, huyện V, tỉnh D) nhằm chiếm đoạt tài sản của Viettel Post tỉnh D, tức là đã xâm phạm đến hoat động đúng đắn của Viettel Post tỉnh D.
Về mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan trong tội tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý.
Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được hiểu là việc sử dụng quyền năng về chức vụ, quyền hạn để làm không đúng, làm sai chức trách, làm trái các nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ quản lý tài sản thuộc lĩnh vực công tác do mình phụ trách, quản lý để chiếm đoạt tài sản. Làm không đúng, không làm sai điều nói trên có thể là trong giới hạn được phép nhưng có liên quan đến cương vị công tác hoặc cũng có thể dùng uy quyền, chức vụ để tác động đến cấp dưới hoặc người khác. Còn chiếm đoạt tài sản là hành vi dịch chuyển bất hợp pháp tài sản chung của cơ quan, tổ chức thành tài sản cá nhân. Hành vi chiếm đoạt tài sản thể hiện mục đích tư lợi, đây là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm tham ô tài sản. Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản.
Trong vụ việc này, T được Viettel Post tỉnh D cung cấp User trên ứng dụng MBCCS và được sử dụng vào mục đích nhập thông tin của khách hàng, đăng ký gói cước sử dụng dịch vụ cho khách hàng và chuyển tiền cước của khách hàng cho Viettel Post tỉnh D. Quá trình thực hiện hợp đồng với Viettel Post tỉnh D, Trần Thị T đã nhiều lần tư vấn, giới thiệu và thu cước đối với 101 khách hàng sử dụng gói cước đóng trước 06 tháng hoặc 12 tháng tương ứng khuyến mãi 02 tháng hoặc 04 tháng miễn phí cước sử dụng dịch vụ với tổng số tiền là 134.380.000 đồng. Sau khi thu tiền cước đóng trước của khách hàng, Trần Thị T chỉ nộp cước đúng quy định vào tài khoản của Viettel Post tỉnh D số tiền 1.813.000 đồng mà không thực hiện nhập thông tin khách hàng và nộp tiền về cho Viettel Post tỉnh D để kích hoạt gói cước cho khách hàng. Số tiền 132.567.000 đồng còn lại, Trần Thị T chiếm đoạt sử dụng vào chi tiêu cá nhân và thực hiện đóng cước hàng tháng cho khách hàng. Có thể thấy, T đã lợi dụng quyền hạn được giao quản lý tài sản mà không làm đúng chức trách, nhiệm vụ mà Viettel Post tỉnh D giao nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản.
Về mặt chủ quan của tội phạm
Đối tượng phạm tội tham ô tài sản thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội nhận thức rõ được việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nhà nước mà mình có trách nhiệm quản lý là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái quy định về quản lý tài sản, làm mất đi sự đúng đắn trong quản lý tài sản của cơ quan, tổ chức; thấy trước được sự thiệt hại về tài sản và những hậu quả khác nhưng vẫn thực hiện và mong muốn hậu quả xảy ra với mục đích chiếm đoạt được tài sản. Về lý trí, T nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt số tiền dịch vụ của Viettel Post tỉnh D sẽ gây thiệt hại về tài sản cho Viettel Post tỉnh D, thấy trước được hậu quả của hành vi chiếm đoạt. Về ý chí, T mong muốn hậu quả phát sinh, mong chiếm được số tiền dịch vụ nhằm mục đích tiêu xài cá nhân.
Mặc dù vụ việc không nêu rõ Viettel Post tỉnh D là cơ quan, tổ chức của nhà nước hay ngoài khu vực nhà nước, nhưng dù Viettel Post tỉnh D là cơ quan, tổ chức của nhà nước hay ngoài khu vực của nhà nước thì hành vi của T vẫn đủ yếu tố cấu thành tội phạm tham ô tài sản bởi khoản 6 Điều 353 BLHS năm 2015 quy định: “Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này”. Liên quan đến nội dung này, Mục 5 Phần I Công văn số 196/TANDTC-PC ngày 03/10/2023 của TANDTC về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử có nêu:
“5. Bị cáo là nhân viên thu tiền điện thoại, tiền cước viễn thông thực hiện việc thu tiền của khách hàng cho Công ty, nhưng sau khi thu được tiền của khách hàng, bị cáo đã chiếm đoạt số tiền này, không nộp về cho Công ty. Hành vi của bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” hay tội “Tham ô tài sản”?
Bị cáo là người được giao thực hiện nhiệm vụ thu tiền của khách, có trách nhiệm và trực tiếp quản lý tiền cước điện thoại, tiền cước viễn thông thu được. Bị cáo đã lợi dụng nhiệm vụ được giao, sau khi thu được tiền của khách hàng, bị cáo không nộp về công ty mà chiếm đoạt số tiền này. Như vậy, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 352, Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và hướng dẫn tại khoản 5 Điều 2 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì hành vi của bị cáo phạm tội “Tham ô tài sản”.
Cụm từ “Công ty” được đề cập đến trong Công văn số 196/TANDTC-PC trên nên được hiểu là công ty có tư cách pháp nhân theo Điều 74 BLDS năm 2015. Và trên thực tế, Viettel Post tỉnh D thuộc Tổng Công ty cổ phần Bưu chính Viettel (là đơn vị thành viên của Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội Viettel) là công ty có tư cách pháp nhân, đồng thời cũng được xác định là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh theo quy định tại khoản 10 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Trên cơ sở những nội dung được phân tích và đề cập ở trên, có thể cho rằng hành vi của Trần Thị T đủ yếu tố cấu thành tội tham ô tài sản quy định tại Điều 353 BLHS năm 2015.
Thứ hai, xác định số tiền mà Trần Thị T chiếm đoạt của Viettel Post tỉnh D
Khoản 1 Điều 10 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ quy định về xác định trị giá tài sản bị chiếm đoạt, thiệt hại do tội phạm tham nhũng, tội phạm khác về chức vụ gây ra có nêu: “Trị giá tài sản bị chiếm đoạt làm căn cứ xử lý hình sự được xác định tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp tội phạm thực hiện liên tục, kéo dài thì trị giá tài sản bị chiếm đoạt được xác định tại thời điểm kết thúc hành vi phạm tội. Đối với trường hợp hành vi phạm tội đang diễn ra nhưng bị phát hiện, ngăn chặn thì trị giá tài sản bị chiếm đoạt được xác định tại thời điểm hành vi phạm tội bị phát hiện, ngăn chặn”.
Nội dung vụ án có nêu: “Quá trình thực hiện hợp đồng, Trần Thị T đã nhiều lần tư vấn, giới thiệu và thu cước đối với 101 khách hàng sử dụng gói cước đóng trước 06 tháng hoặc 12 tháng tương ứng khuyến mãi 02 tháng hoặc 04 tháng miễn phí cước sử dụng dịch vụ với tổng số tiền là 134.380.000 đồng. Sau khi thu tiền cước đóng trước của khách hàng, Trần Thị T chỉ nộp cước đúng quy định vào tài khoản của Viettel Post tỉnh D số tiền 1.813.000 đồng mà không thực hiện nhập thông tin khách hàng và nộp tiền về cho Viettel Post tỉnh D để kích hoạt gói cước cho khách hàng. Số tiền 132.567.000 đồng còn lại, Trần Thị T chiếm đoạt sử dụng vào chi tiêu cá nhân và thực hiện đóng cước hàng tháng cho khách hàng”; trong khi đó, đối với tội tham ô tài sản, tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Dựa theo những dữ liệu vụ án đã đưa ra, có thể cho rằng, hành vi phạm tội của Trần Thị T hoàn thành kể từ thời điểm T không nộp cước đã thu của 101 khách hàng (việc thu cước này có thể không được thực hiện trong cùng một thời điểm, diễn ra vào các khoảng thời gian khác nhau) trước 10 giờ ngày kế tiếp ngày thu tiền cho Viettel Post tỉnh D thông qua User được Viettel Post tỉnh D cấp trên ứng dụng MBCCS, tức từ thời điểm T thực hiện hành vi phạm tội. Việc T thực hiện đóng cước hàng tháng cho khách hàng được nhận diện là thủ đoạn nhằm che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản của Viettel Post tỉnh D. Chính vì vậy, số tiền mà Trần Thị T chiếm đoạt của Viettel Post tỉnh D phải được xác định là 132.567.000 đồng.
Trên đây là một số quan điểm của các tác giả về bài viết, mong nhận được sự trao đổi của bạn đọc.
Tài liệu tham khảo
1. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (2021), Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ.
2. Lại Sơn Tùng (2022), Trần Đình A phạm tội Tham ô tài sản, https://tapchitoaan.vn/tran-dinh-a-pham-toi-tham-o-tai-san6206.html?, truy cập ngày 06/02/2025.
3. Toà án nhân dân tối cao (2023), Công văn số 196/TANDTC-PC ngày 03/10/2023 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử.
Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà, Kon Tum đã mở phiên tòa xét xử về hành vi tham ô tài sản - Ảnh: Sen Ngọc.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Vụ “thổi giá” đất 30 tỷ đồng/m2 ở Sóc Sơn: 6 bị cáo đã lĩnh án tù
-
Về bài viết: “Có đình chỉ giải quyết vụ án dân sự do sự việc đã được giải quyết bằng bản án hành chính đã có hiệu lực không?”
-
Dự kiến sẽ sáp nhập 6 - 7 nghìn đơn vị hành chính cấp xã
-
Ngày Xuân, Cột cờ Lũng Cú cảnh đẹp mê hoặc lòng người
-
Pháp luật Trung Quốc về kiện phái sinh và kiến nghị cho Việt Nam
Bình luận