Xử lý vật chứng giá trị còn lại không đáng kể, không sử dụng được như thế nào cho đúng?

Vật chứng là một trong các nguồn chứng cứ quan trọng được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự, đặc biệt là trong quá trình chứng minh vụ án hình sự. Hiện nay, với những quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự về thu thập, bảo quản, kiểm tra, đánh giá và xử lý vật chứng đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng giúp hoạt động của cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được hiệu quả, thuận lợi, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giải quyết các vụ án hình sự.

Bên cạnh những thuận lợi, quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) và Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) trong xử lý vật chứng còn hạn chế, vướng mắc như: xử lý vật chứng đối với vật là công cụ, phương tiện phạm tội giá trị còn lại không đáng kể, không sử dụng được có nơi, có lúc áp dụng còn khác nhau, chưa có sự thống nhất trong cách xử lý giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.

Tác giả xin nêu một tình huống pháp lý sau để phân tích, luận bàn làm rõ hơn vấn đề đặt ra:

Trong khoảng thời gian tháng 7/2024 trên địa bàn các huyện C’gar, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk và huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông, Nguyễn Trung T (nghiện ma túy, không có nghề nghiệp) đã 15 lần lén lút đột nhập vào các trạm thu phát sóng (BTS) của các nhà mạng viễn thông Viettel, Vinaphone, Mobifone dùng các công cụ (kìm cộng lực, xà beng…) cắt trộm dây cáp điện, dây cáp tiếp địa thoát sét của 15 trạm BTS của các nhà mạng, sau đó đốt hoặc dùng dao dọc giấy tách lấy dây lõi đồng mang đi bán phế liệu kiếm tiền tiêu xài cá nhân. Tổng số giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 34.589.094 đồng. Bản án số 04/2025/HS-ST ngày 20/3/2025 của Tòa án quân sự Khu vực Quân khu A xét xử bị cáo Nguyễn Trung T 36 tháng tù về tội trộm cắp tài sản theo các điểm b, g khoản 2 Điều 173 BLHS. Về bồi thường thiệt hại: Buộc bị cáo T phải bồi thường cho các bị hại tổng số tiền là 34.589.094 đồng, trong đó: bồi thường cho Viễn thông Đắk Lắk số tiền 12.111.026 đồng; bồi thường cho Tổng Công ty Cổ phần Công trình Viettel số tiền 4.949.568 đồng; bồi thường cho Trung tâm mạng lưới MobiFone miền Trung số tiền 6.310.500 đồng; bồi thường cho Viễn thông Đắk Nông số tiền 11.218.000 đồng. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm b khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 cuộn dây lõi đồng nặng 03kg; 01 thanh kim loại dài 53,7cm là vật do phạm tội mà có, có giá trị sử dụng (kết luận định giá tài sản 01 cuộn dây lõi đồng 03kg trị giá 563.000 đồng; 01 thanh kim loại dài 53,7cm trị giá 200.000 đồng).

Ngày 18/4/2025 Viện kiểm sát quân sự Quân khu A kháng nghị theo hướng không tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 cuộn dây lõi đồng nặng 03kg; 01 thanh kim loại dài 53,7cm mà trả lại cho bị hại Viễn thông Đắk Lắk và giảm mức bồi thường thiệt hại.

Ngày 13/5/2025, Viễn thông Đắk Lắk có Công văn số 1050/CV-VNPT-ĐLK-NSTH nêu ý kiến quan điểm về việc bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng gửi Tòa án cấp phúc thẩm như sau: Nguyễn Trung T đã đột nhập vào các Trạm thu phát sóng của Viễn thông Đắk Lắk cắt các dây điện, dây cáp tiếp địa rồi trộm cắp gây thiệt hại cho Viễn thông Đắk Lắk theo Kết luận định giá tài sản số tiền 12.111.026 đồng. Thực tế giá trị số tài sản bị cắt trộm cao hơn nhiều so với Kết luận định giá, chưa kể Viễn thông Đắk Lắk phải tốn chi phí thuê nhân công lắp đặt, thay mới toàn bộ số dây điện, dây cáp tiếp địa bị cắt trộm, do đó Viễn thông Đắk Lắk không nhận lại 01 cuộn dây lõi đồng nặng 0,3kg, 01 thanh kim loại tròn dài 53,7cm vì không còn giá trị sử dụng; yêu cầu bị cáo T phải bồi thường cho Viễn thông Đắk Lắk thiệt hại theo Kết luận định giá số tiền 12.111.026 đồng, không giảm mức bồi thường thiệt hại.

Tại Bản án số 03/HS-PT ngày 24/6/2025 của Tòa án quân sự Quân khu A xét xử phúc thẩm quyết định chấp nhận kháng nghị của Viện Kiểm sát, sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 BLHS, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS trả lại cho Viễn thông Đắk Lắk 01 cuộn dây lõi đồng nặng 03kg; 01 thanh kim loại dài 53,7cm; buộc bị cáo bồi thường cho bị hại Viễn thông Đắk Lắk 11.348.026 đồng (đã trừ đi số tiền 763.000 đồng theo kết luận định giá tài sản 02 vật chứng trên).

Về xử lý vật chứng, bồi thường thiệt hại đối với vụ án trên, hiện có các quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất: Không tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 cuộn dây lõi đồng 03kg; 01 thanh kim loại dài 53,7cm mà trả lại cho bị hại Viễn thông Đắk Lắk và giảm mức bồi thường thiệt hại. Bởi vì, đây là tài sản của Viễn thông Đắk Lắk do bị cáo T trộm cắp có được; kết luận định giá tài sản 01 cuộn dây lõi đồng 03kg trị giá 563.000 đồng; 01 thanh kim loại dài 53,7cm trị giá 200.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định tài sản này là “vật do phạm tội mà có, có giá trị sử dụng” nhưng lại tuyên tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước là không đúng với các quy định về xử lý vật chứng tại khoản 2 Điều 47 BLHS 2015: Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp”, vi phạm điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS 2015: Trả lại ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án”, việc vừa tuyên tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước, vừa buộc bị cáo bồi thường cho bị hại toàn bộ tài sản đã chiếm đoạt, gây bất lợi cho bị cáo.

Quan điểm thứ hai: Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát tuyên trả số vật chứng trên cho bị hại Viễn thông Đắk Lắk và tính giá trị tài sản được định giá trước thời điểm thi hành án để đối trừ khoản tiền bị cáo Nguyễn Trung T phải bồi thường là không đúng. Trường hợp này cần tuyên tiếp tục tạm giữ số vật chứng trên để bảo đảm thi hành án (cơ quan thi hành án sẽ đối trừ giá trị vật chứng nêu trên tại thời điểm thi hành án vào nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của bị cáo T).

Quan điểm thứ ba, cũng là quan điểm của tác giả: Trường hợp này buộc bị cáo T phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho Viễn thông Đắk Lắk số tiền 12.111.026 đồng, không trả lại 01 cuộn dây lõi đồng nặng 0,3kg, 01 thanh kim loại tròn dài 53,7cm cho bị hại mà tịch thu sung vào ngân sách nhà nước, bởi vì vật chứng trong vụ án cần xác định là tài sản do phạm tội mà có, tuy nhiên bị hại đã thể hiện rõ ý chí không nhận lại số vật chứng này. Theo quy định tại khoản 2 Điều 47 BLHS 2015 thì: Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp” được hiểu là người phạm tội phải trả lại vật đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp khi vật đó còn nguyên và còn sử dụng được, trong vụ án này dây cáp điện, dây cáp tiếp địa thoát sét đã bị cắt nát chỉ còn lõi đồng, không có khả năng sửa chữa, tái sử dụng, giá trị còn lại (bán phế liệu) không đáng kể so với thiệt hại bị cáo đã gây ra.

Mặt khác, để Hội đồng xét xử ghi nhận việc bị hại nhận lại tài sản và xem xét vấn đề bồi thường thiệt hại của bị cáo thì cần thiết phải có sự đồng ý của bị hại. Việc xử lý vật chứng trong trường hợp này như một quan hệ dân sự, căn cứ các Điều 584, 585 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về bồi thường thiệt hại, các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường… Hội đồng xét xử ghi nhận quan hệ dân sự này trên cơ sở tự nguyện của hai bên, trong trường hợp một bên từ chối thỏa thuận thì vấn đề bồi thường thiệt hại vẫn đặt ra theo quy định của pháp luật, nghĩa là thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Theo đó, khi bị hại từ chối nhận lại tài sản vì giá trị còn lại (bán phế liệu) không đáng kể so với thiệt hại bị cáo đã gây ra, không sử dụng được, yêu cầu bị cáo bồi thường theo kết luận định giá tài sản và không giảm mức bồi thường thì Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đã gây ra. Như vậy, trong vụ án này, bị cáo T phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại Viễn thông Đắk Lắk số tiền 12.111.026 đồng; đối với 01 cuộn dây lõi đồng nặng 0,3kg, 01 thanh kim loại tròn dài 53,7cm là tài sản do phạm tội mà có, giá trị còn lại không đáng kể và bị hại từ chối nhận lại thì Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 BLHS 2015, điểm b khoản 2 Điều 106 BLTTHS 2015 tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước là phù hợp thực tế khách quan, hợp tình, hợp lý, đúng quy định pháp luật.

Trên đây là nội dung tình huống pháp lý và các quan điểm về xử lý đối với vật chứng giá trị còn lại không đáng kể, không sử dụng được. Rất mong nhận được ý kiến trao đổi từ các đồng nghiệp và quý bạn đọc.

ThS. LÊ ĐÌNH NGHĨA (Thẩm phán TAQS Khu vực 2 Quân khu 5)

Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội tổ chức tiêu hủy vật chứng là ma túy - Ảnh: Giang Huyền.