A có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê tài sản
Sau khi đọc bài viết của tác giả Nguyễn Anh Dũng, “Lấy xe cho người khác thuê phạm tội gì”, đăng ngày 15/7/2020 và nghiên cứu các văn bản pháp luật liên quan, tôi thấy A có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê tài sản với B.
Hợp đồng được lập giữa A và B là hợp đồng thuê tài sản, được quy định tại mục 5 Chương XVI Bộ luật Dân sự (BLDS). Do đó, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên, cũng như việc chấm dứt hợp đồng được quy định cụ thể như sau:
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 475 BLDS: “Bên thuê có quyền cho thuê lại tài sản mà mình đã thuê, nếu được bên cho thuê đồng ý”. Trong trường hợp này, A chỉ đồng ý cho B thuê tài sản (xe ô tô). A không biết việc B cho vợ chồng C thuê lại và cũng không đồng ý hành vi này của B.
Do đó, hành vi cho thuê lại xe ô tô của B là hành vi sử dụng tài sản thuê không đúng mục đích.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 2 Điều 480 BLDS: “Trường hợp bên thuê sử dụng tài sản không đúng mục đích, không đúng công dụng thì bên cho thuê có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Trong trường hợp này B đã có hành vi sử dụng tài sản không đúng mục đích, không đúng công dụng như đã phân tích ở trên.
Do đó, A có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, theo quy định tại khoản 2 Điều 428 BLDS: “Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Do đó, trường hợp này, mặc dù A có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng nhưng nếu A không thực hiện các hình thức thông báo cho B (gọi điện thoại, nhắn tin…) thì A phải bồi thường nếu có thiệt hại do hành vi chấm dứt hợp đồng gây ra.
Cần khẳng định rằng, việc A chấm dứt hợp đồng trong trường hợp này (kể cả có thông báo hay không thông báo) là hành vi hợp pháp, được pháp luật dân sự quy định.
Như vậy, hành vi thu hồi tài sản của A (lấy lại xe ô tô) là hành vi hợp pháp, là tất yếu khách quan phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng. Do đó, A không bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp này.
Thứ tư, sau khi A đơn phương chấm dứt hợp đồng thì các bên tiếp tục thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 428 BLDS: “Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán phần nghĩa vụ đã thực hiện”.
Trên đây là quan điểm của tác giả sau khi nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của pháp luật dân sự về Hợp đồng thuê tài sản. Rất mong nhận được nhiều ý kiến trao đổi của quý đồng nghiệp./.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Khánh thành tượng đài “Bác Hồ với chiến sĩ biên phòng” tại cửa khẩu quốc tế Cầu Treo
-
Sắp diễn ra Tuần lễ Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu 2024
-
Khai mạc Festival “Về miền ví, giặm – Kết nối tinh hoa di sản”
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
-
Hội thảo khoa học "200 ngày tập kết ra Bắc tại Cà Mau - tầm nhìn chiến lược và giá trị lịch sử"
Bình luận