Những hạn chế, vướng mắc của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và kiến nghị hoàn thiện

Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức tổng kết thực tiễn thi hành, rà soát, đánh giá và xây dựng dự thảo Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014, xác định những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Qua đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và hoàn thiện tổ chức bộ máy của các Tòa án nhân dân theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các văn bản pháp luật có liên quan nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Bài viết dưới đây giới thiệu dự thảo báo cáo đánh giá về những hạn chế, vướng mắc của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và kiến nghị sửa đổi, bổ sung

1. Những hạn chế, vướng mắc

Về chức năng, nhiệm vụ của TAND

- Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp ”. Tuy nhiên, nội hàm của quyền tư pháp, đặc trưng của quyền tư pháp chưa được làm rõ trong bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào, cũng như chưa văn bản quy phạm pháp luật nào xác định cơ quan tư pháp gồm những cơ quan nào dẫn đến nhận thức của một số tổ chức, cá nhân về vị trí, vai trò của Tòa án trong bộ máy nhà nước còn chưa đúng và không thống nhất; quan niệm về “quyền tư pháp” và những vấn đề liên quan cũng chưa thống nhất. Vẫn còn quan điểm cho rằng, quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền bao gồm không chỉ quyền xét xử của Tòa án, mà còn bao gồm cả thẩm quyền áp dụng pháp luật của các cơ quan bảo vệ pháp luật khác (như cơ quan điều tra, viện kiểm sát, Bộ Tư pháp, Thanh tra ..), thậm chí của cả các cơ quan bổ trợ tư pháp (như Luật sư, Công chứng, Giám định...) và các hoạt động của tất cả cơ quan, tổ chức này đều nhằm đảm bảo cho việc thực hiện quyền xét xử của Tòa án đạt hiệu quả cao, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, các quyền và tự do của con người, của công dân; trong đó Tòa án được xác định là “cơ quan trung tâm của quyền tư pháp”.

Từ nhận thức chưa rõ tính chất, vai trò, vị trí của Tòa án cũng dẫn tới những nhầm lẫn trong việc quy định các chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Tòa án trong quá trình tiến hành tố tụng, nhất là đặt gánh nặng chứng minh, tìm kiếm, thu thập chứng cứ lên vai Tòa án trong một số trường hợp nhất định. Bên cạnh đó, việc quy định Viện kiểm sát có quyền kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án đã làm ảnh hưởng đến tính độc lập của Tòa án. Thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong các giai đoạn tố tụng, nhất là trong giai đoạn điều tra, truy tố và thi hành án hình sự, dân sự, hành chính còn chưa tương xứng với nhiệm vụ của TAND đã được Hiến pháp khẳng định là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

  • Khoản 2 Điều 6 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 quy định: “Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm”. Tuy nhiên, quy định này chưa làm nổi bật được tính chất của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là “sửa sai đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực của Toà án có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới, bảo vệ hoạt động xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật”. Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật tố tụng thì vi phạm pháp luật phải ở mức độ “nghiêm trọng” mới được xem là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm[1]. Do vậy, cần bổ sung quy định về việc xem xét lại bản án, quyết định theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm là một nguyên tắc tư pháp trong Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) nhằm bảo đảm sự thống nhất giữa Luật Tổ chức TAND và các bộ luật, luật về tố tụng.
  • Điều 2 Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của TAND. Tuy nhiên, một số nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án chưa được liệt kê cụ thể tại Điều này như: xem xét, quyết định việc đưa người nghiện ma tuý từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; xem xét, quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng.
  • Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ cộng đồng”. Quyền quyết định những vấn đề liên quan đến quyền con người là một trong những nội hàm của quyền tư pháp. Tuy nhiên, hiện nay tại Điều 2 Luật Tổ chức TAND về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Toà án chưa có quy định về việc Tòa án “xem xét, quyết định việc hạn chế quyền con người của đương sự, bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật”.

Về Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia

Điều 70 Luật Tổ chức TAND quy định Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia gồm Chánh án TANDTC, 01 Phó Chánh án TANDTC, Chánh án Tòa án quân sự trung ương, các Chánh án TAND cấp cao, 01 đại diện lãnh đạo Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Văn phòng Chủ tịch nước, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Ban chấp hành Trung ương Hội luật gia Việt Nam. Chánh án TANDTC là Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia. Danh sách Ủy viên Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án TANDTC. Quy chế hoạt động của Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của Chánh án TANDTC.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy thành phần, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia chưa bảo đảm khách quan, toàn diện, cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng kinh nghiệm quốc tế và sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.

Về mô hình tổ chức hệ thống TAND

Về cơ bản, tổ chức Tòa án chưa theo thẩm quyền xét xử, còn gắn với địa giới hành chính một cách chặt chẽ nên còn phụ thuộc vào chính quyền địa phương, điều này dẫn đến một số hạn chế nhất định:

  • Do gắn với đơn vị hành chính, nên số lượng TAND cấp huyện hiện nay là rất lớn (702 TAND cấp huyện). Với số lượng lớn các TAND cấp huyện như vậy, việc đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường nguồn lực cho Toà án nhân dân cấp huyện là một khó khăn, thách thức lớn, trong khi Toà án nhân dân cấp huyện là nơi giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm trên 80% các loại vụ việc thuộc thẩm quyền của ngành Toà án nhân dân.
  • Do được tổ chức theo đơn vị hành chính cấp huyện, cấp tỉnh nên trong nhận thức của các ngành, các cấp, các TAND được coi như một đơn vị chức năng thuộc đơn vị hành chính cùng cấp. Điều này hạ thấp địa vị pháp lý của Toà án nhân dân, gây khó khăn cho việc xử lý, giải quyết các vấn đề về tổ chức và hoạt động của Tòa án, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, nhất là trong việc giải quyết các vụ án hành chính, khi một bên trong vụ án là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.
  • TAND cấp huyện được tổ chức dàn trải, số lượng các vụ việc phải giải quyết của mỗi Tòa án phụ thuộc vào đặc điểm dân số, địa lý, mức độ phát triển kinh tế- xã hội, số lượng tội phạm, tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại,... xảy ra trên từng địa bàn, có nơi quá nhiều việc, ngược lại có nơi lại quá ít việc. Các TAND thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh, các TAND quận thuộc các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh là những đơn vị luôn phải giải quyết, xét xử số lượng lớn các vụ việc và còn tiếp tục tăng lên (có đơn vị hàng năm phải giải quyết, xét xử trên dưới 3.000 vụ việc các loại); trong khi đó, TAND cấp huyện ở khu vực miền núi lại có số lượng vụ việc thấp (có Toà án cấp huyện hàng năm chỉ giải quyết, xét xử trên dưới 100 vụ việc các loại). Thực tế này đang tạo ra những trở ngại, khó khăn trong việc kiện toàn, nâng cao năng lực và chất lượng công tác của các Toà án cấp huyện. Đối với các Toà án cấp huyện có khối lượng lớn về công việc thì việc xây dựng đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất luôn luôn là gánh nặng và là vấn đề bức xúc do xuất phát từ yêu cầu phải giải quyết một khối lượng công việc về chuyên môn quá lớn và ngày càng tăng theo đà phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương đó. Ngược lại, đối với những Toà án cấp huyện có khối lượng công việc giải quyết không đáng kể nhưng vẫn phải bố trí đủ cán bộ theo cơ cấu tổ chức bộ máy của Toà án theo quy định và yêu cầu phải có trụ sở, phương tiện làm việc như các đơn vị khác nên đã gây ra lãng phí không đáng có về nhân lực và vật lực trong việc đầu tư cơ sở vật chất và xây dựng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức Toà án.
  • Cơ cấu bộ máy của Toà án nhân dân cấp huyện hiện nay còn đơn giản, không được tổ chức theo lĩnh vực xét xử, nên khó khăn trong việc đầu tư, đào tạo chuyên ngành cho các Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án, cán bộ, công chức Toà án nhân dân cấp huyện, ảnh hưởng đến chất lượng công tác của Tòa án, đặc biệt là công tác giải quyết, xét xử các loại vụ việc đòi hỏi chuyên môn sâu và những kỹ năng nghiệp vụ đặc thù như các vụ việc về đất đai, sở hữu trí tuệ, môi trường, phá sản, kinh doanh thương mại, các vụ việc có liên quan đến gia đình và người chưa thành niên ...]

Về tổ chức bộ máy và thẩm quyền của các TAND

Tại TANDTC

Điều 21 Luật Tổ chức TAND quy định TANDTC có cơ cấu tổ chức gồm “Hội đồng Thẩm phán TANDTC; Bộ máy giúp việc; cơ sở đào tạo, bồi dưỡng” mà không quy định TANDTC có các cơ quan báo chí và đơn vị sự nghiệp khác. Do đó, Nghị quyết số 956/NQ-UBTVQH13 ngày 28/5/2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Chánh án TANDTC về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của TANDTC đã quy định Báo Công lý, Tạp chí Tòa án thuộc bộ máy giúp việc. Tuy nhiên, Báo Công lý, Tạp chí Tòa án đều là những đơn vị sự nghiệp công lập có tính chất hoạt động, kinh phí, nhân sự và chức năng, nhiệm vụ khác với những đơn vị khác thuộc bộ máy giúp việc. Vì vậy, việc quy định các cơ quan báo chí (Báo Công lý, Tạp chí TAND) thuộc bộ máy giúp việc của TANDTC là chưa thực sự phù hợp với tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của Đảng.

Theo Luật Tổ chức TAND 2014, TANDTC không tổ chức Tòa chuyên trách, không có các ngạch Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp; giúp việc cho Hội đồng Thẩm phán TANDTC là Thẩm tra viên, Thư ký viên của 03 Vụ Giám đốc kiểm tra. Trong điều kiện số lượng đơn khiếu nại tư pháp lớn, với tính chất ngày càng phức tạp và khô ng có xu hướng giảm như hiện nay, thì nguồn nhân sự giúp việc theo Luật thực sự chưa thể đáp ứng được yêu cầu của vị trí công tác. Để thực hiện tốt nhiệm vụ giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định của các Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng, đòi hỏi nguồn nhân sự phải là những công chức vững vàng về năng lực, chất lượng, giàu kinh nghiệm trong công tác xét xử. Tuy nhiên, để thu hút được đội ngũ Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp từ TAND các cấp đến công tác tại các Vụ Giám đốc kiểm tra là rất khó khăn.

Theo Nghị quyết số 956/NQ-UBTVQH13 thì tại ' TANDTC thành lập 03 Vụ Giám đốc kiểm tra gồm: Vụ Giám đốc, kiểm tra về hình sự, hành chính (Vụ Giám đốc kiểm tra I); Vụ giám đốc kiểm tra về dân sự, kinh doanh - thương mại (Vụ Giám đốc kiểm tra II); Vụ Giám đốc kiểm tra về lao động, gia đình và người chưa thành niên (Vụ Giám đốc kiểm tra III). Trong quá trình thực hiện, căn cứ vào yêu cầu thực tiễn, Chánh án TANDTC đã cân nhắc chuyển nhiệm vụ xem xét, giải quyết văn bản yêu cầu đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm về lĩnh vực hành chính từ Vụ Giám đốc kiểm tra I sang Vụ Giám đốc kiểm tra III. Tuy nhiên, dù nhiệm vụ xem xét, giải quyết văn bản yêu cầu đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm về lĩnh vực hành chính do Vụ Giám đốc kiểm tra I hay Vụ Giám đốc kiểm tra III thực hiện thì các Vụ Giám đốc kiểm tra này đều phải giải quyết nhiều loại án có liên quan đến nhiều Luật tố tụng khác nhau , đòi hỏi nguồn nhân sự phải là những công chức vững vàng về năng lực, chất lượng, giàu kinh nghiệm trong công tác xét xử, phải đầu tư rất nhiều thời gian, công sức, trong khi đó án hành chính là loại án khó, phức tạp, số lượng vụ việc phải giải quyết tương đối lớn và ngày càng gia tăng. Do đó, việc ghép chức năng xem xét, giải quyết văn bản yêu cầu đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm về lĩnh vực hành chính vào các Vụ Giám đốc kiểm tra I hay Vụ Giám đốc kiểm tra III là chưa thực sự phù hợp, có thể làm ảnh hưởng tới hiệu quả công tác giám đốc, kiểm tra đối với loại án hành chính này.

Tại TAND cấp cao

Theo quy định tại Điều 29, Điều 30 và Điều 34 Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì đơn vị giám đốc kiểm tra của các TAND cấp cao là đơn vị có vị trí độc lập ngang với Tòa chuyên trách và Văn phòng, là đơn vị trực thuộc TAND cấp cao (tương đương với cấp Tổng cục), thực hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lưc pháp luật của Tòa án cấp huyện và cấp tỉnh. Tại Viện kiểm sát cấp cao thì các đơn vị thực hiện việc giám đốc kiểm tra là các Viện chuyên môn (đơn vị cấp vụ loại II). Tuy nhiên, hiện nay đơn vị giám đốc kiểm tra tại TAND cấp cao mới được xây dựng là cấp phòng, là chưa tương xứng và phù hợp với quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014 và chưa bảo đảm tính đồng bộ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.

Khoản 2 Điều 31 Luật Tổ chức TAND quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao gồm: a) Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; b) Thảo luận, góp ý kiến đối với báo cáo của Chánh án TAND cấp cao về công tác của TAND cấp cao để báo cáo TANDTC.

Tuy nhiên, việc quy định toàn bộ thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm giao cho Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao là chưa hợp lý, tạo gánh nặng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cho Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao.

Tại TAND cấp tỉnh

Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 31, khoản 3 Điều 37, Điều 39 Luật tổ chức TAND năm 2014 thì TAND tỉnh không còn thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án quyết định có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện mà thẩm quyền này được giao cho các TAND cấp cao. Quy định này nhằm giảm đầu mối Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm; đồng thời tăng cường tính thống nhất và nâng cao chất lượng công tác giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, TAND cấp tỉnh trực tiếp thực hiện việc kiểm tra nghiệp vụ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ của TAND cấp huyện. Khi phát hiện có căn cứ cần phải kháng nghị thì TAND cấp tỉnh chỉ có thẩm quyền kiến nghị kháng nghị dẫn đến không bảo đảm kịp thời. Việc bỏ chức năng giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án cấp tỉnh là không phù hợp, điều này không chỉ gây lãng phí nguồn nhân lực chất lượng, giàu kinh nghiệm, tạo thêm thủ tục hành chính và cũng tạo thêm áp lực về khối lượng công việc lên các TAND cấp cao hiện nay.

Tại TAND cấp huyện

Theo quy định tại Điều 45 Luật Tổ chức TAND thì cơ cấu tổ chức của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương còn khá đơn giản, có thể có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính. Trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TANDTC. Bên cạnh đó, TAND cấp huyện không được tổ chức theo thẩm quyền xét xử mà vẫn tổ chức theo đơn vị hành chính cấp huyện nên chưa thực sự bảo đảm được nguyên tắc quy định trong Hiến pháp “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” và chưa thực hiện đúng chủ trương “tăng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện” theo Nghị quyết số 49/NQ-TW. Vì vậy, một số lượng lớn công việc lẽ ra thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm nhưng hiện nay đang phải chuyển cho TAND cấp tỉnh giải quyết (các vụ án hành chính liên quan đến quyết định hành chính do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh ban hành; các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài...). Điều này cũng dẫn tới hệ quả Tòa án cấp huyện được phân bổ ít biên chế, hạn chế việc tổ chức các Tòa chuyên trách, từ đó làm giảm tính chuyên môn hóa trong việc xét xử các loại vụ việc; Thẩm phán không có điều kiện tốt nhất để tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng xét xử, từ đó, phần nào ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng xét xử.

Tại Tòa án quân sự

Theo quy định tại Điều 32 và Điều 53 Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương tổ chức xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm như Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao với Hội đồng xét xử gồm 03 Thẩm phán hoặc toàn thể Ủy ban Thẩm phán. Trong khi đó, khoản 3 Điều 382 Bộ luật Tố tụng hình sự chỉ quy định Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương xét xử giám đốc thẩm bằng Hội đồng toàn thể Ủy ban Thẩm phán mà không quy định xét xử bằng Hội đồng xét xử gồm 03 Thẩm phán là chưa có sự thống nhất trong quy định của Luật Tổ chức TAND và Bộ luật Tố tụng hình sự.

Về Thẩm phán và cán bộ, công chức Tòa án; chế độ, chính sách đối với Thẩm phán và cán bộ, công chức Tòa án

Về đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký

- Về các ngạch Thẩm phán:

+ Khoản 2, khoản 3 Điều 66 Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định tại TANDTC có Thẩm phán TANDTC; tại TAND cấp cao, Tòa án quân sự trung ương có Thẩm phán cao cấp. Thực tiễn xét xử cho thấy các vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng Thẩm phán đều là những vụ án khó, phức tạp, đòi hỏi những người nghiên cứu, giúp việc cho Hội đồng Thẩm phán phải có trình độ chuyên môn vững vàng, đã có kinh nghiệm xét xử các loại án (như các Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp). Tuy nhiên, thực hiện theo đúng các quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì giúp việc cho Hội đồng Thẩm phán TANDTC hiện nay là các Thẩm tra viên thuộc 03 Vụ Giám đốc kiểm tra. Đội ngũ Thẩm tra viên này chủ yếu là những người được tuyển dụng mới, còn có những hạn chế nhất định về kinh nghiệm cũng như trình độ nghiệp vụ, chủ yếu là trên cơ sở lý thuyết, chưa có kỹ năng xét xử để bảo đảm chất lượng công tác định tội, lượng hình, đánh giá về chứng cứ hoặc các vi phạm tố tụng... Do đó, quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 66 Luật Tổ chức TAND là chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn; không huy động được nguồn nhân lực là các Thẩm phán giàu kinh nghiệm xét xử, có trình độ chuyên môn đến làm việc tại các đơn vị TAND cấp cao và TANDTC.

Bên cạnh đó, việc quy định TAND cấp cao không có Thẩm phán trung cấp sẽ không tạo được tính kế thừa trong công tác cán bộ; khô ng thống nhất với quy định Chánh án Tòa án quân sự trung ương là Thẩm phán TANDTC; khó khăn cho công tác luân chuyển, điều động cán bộ.

+ Khoản 4 Điều 66 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định tại TAND tỉnh có Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp. Tuy nhiên, pháp luật không quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán sơ cấp công tác tại Toà án nhân dân cấp tỉnh. Thực tế, Toà án nhân dân tối cao cũng không phân bổ biên chế Thẩm phán sơ cấp công tác tại Toà án nhân dân cấp tỉnh. Điều này tạo ra sự không thống nhất trong quy định pháp luật.

- Về nguồn bổ nhiệm Thẩm phán:

+ Điều 69 Luật Tổ chức TAND quy định điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC, trong đó, quy định đối với người trong hệ thống Tòa án phải: “Đã là Thẩm phán cao cấp từ đủ 05 năm trở lên”. Quy định này đã thu hẹp nguồn bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC từ các TAND cấp tỉnh. Bởi vì, theo quy định hiện nay, chỉ có Chánh án và 01 Phó Chánh án (đối với Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) TAND cấp tỉnh thì mới được cơ cấu Thẩm phán cao cấp.

+ Theo quy định của Luật Tổ chức TAND về nguồn bổ nhiệm Thẩm phán cấp trên có 02 nguồn: nguồn thứ nhất là đã qua công tác xét xử, là Thẩm phán cấp dưới 01 nhiệm kỳ mới được bổ nhiệm lên Thẩm phán cấp trên, nguồn thứ 2 là nếu không qua công tác xét xử thì phải cộng thêm thời gian làm công tác pháp luật lâu hơn, Thẩm phán trung cấp phải có thâm niên từ 13 năm, Thẩm phán cao cấp là 18 năm trở lên. Tuy nhiên, đối với nguồn Thẩm phán tính theo thời gian công tác pháp luật (chưa qua xét xử) thì chỉ được sử dụng trong trường hợp có “nhu cầu” cán bộ, tức là không được áp dụng thường xuyên cùng với nguồn từ Thẩm phán cấp dưới. Quy định này là một bất cập khi ở TANDTC và TAND cấp cao không có các ngạch Thẩm phán sơ cấp, trung cấp trong khi không có cơ chế luân chuyển thường xuyên và định kỳ, nên phần nào ảnh hưởng đến tư tưởng của các cán bộ làm công tác chuyên môn tại các đơn vị này, làm hạn chế, thu hẹp diện nguồn Thẩm phán, không tận dụng được những nhân lực có trình độ chuyên môn và không động viên được tinh thần làm việc tại các đơn vị TAND cấp cao và TANDTC. Đối với nguồn Thẩm phán lấy từ Thẩm phán cấp dưới: thực hiện công tác rà soát, luân chuyển cán bộ cũng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc ổn định cuộc sống, ổn định tư tưởng của cán bộ; các Thẩm phán không muốn chuyển về công tác tại TANDTC vì khi chuyển lên sẽ phải chuyển ngạch từ Thẩm phán sang ngạch Thẩm tra viên, chuyên viên, trong khi đó để được Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán - một chức danh cao quý là cả sự nỗ lực, phấn đấu cống hiến rất nhiều của họ mới đạt được.

Về điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán:

Khoản 6 Điều 68 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định theo hướng trường hợp người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều động đến để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo các TAND, tuy chưa đủ thời gian làm công tác pháp luật nhưng có đủ các tiêu chuẩn quy định tại Điều 67 của Luật này và điều kiện quy định tại điểm b khoản 1, điểm b khoản 2, điểm c khoản 3, điểm b khoản 4 Điều 68 thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp. Tuy nhiên, trên thực tế những người đang công tác tại các ngành khác khó có thể đáp ứng tiêu chuẩn đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử tại khoản 3 Điều 67, nếu buộc họ phải có chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ xét xử mới được bổ nhiệm thì thiếu tính khả thi.

Về nhiệm kỳ của Thẩm phán:

+ Điều 74 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định nhiệm kỳ đầu của các Thẩm phán là 05 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm. Việc quy định nhiệm kỳ Thẩm phán như hiện hành tuy đã có đổi mới so với trước đây nhưng vẫn cần được cân nhắc thêm vì chưa tạo tâm lý yên tâm công tác cho các Thẩm phán. Trong khi đó, thời gian thực hiện quy trình bổ nhiệm lại tương đối dài. Mặt khác, Luật lại quy định thời gian để nâng ngạch Thẩm phán là 05 năm cũng là quá dài và khó xây dựng nguồn nhân sự trong thực tế...;

+ Nhiệm kỳ của Thẩm phán, quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại còn phụ thuộc vào nhận xét của cấp ủy cùng cấp... gây ảnh hưởng đến tổ chức, hoạt động của Tòa án và việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán, nhất là trong việc giải quyết các vụ án hành chính.

Về số lượng biên chế

Số lượng biên chế của hệ thống Tòa án được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phân bổ từ năm 2012 trên cơ sở căn cứ số lượng vụ việc Tòa án các cấp phải giải quyết là hơn 303.848 vụ việc/năm. Đến nay, số lượng vụ việc phải giải quyết hàng năm đã gần gấp đôi (Năm 2022, Tòa án các cấp thụ lý 567.521 vụ việc, đã giải quyết 504.861 vụ việc) và dự kiến còn tiếp tục tăng trong những năm tới. Trong khi số lượng biên chế chưa đủ theo định biên được phân bổ năm 2012, thay vì được tăng biên chế căn cứ vào công việc thực tế như chủ trương của Đảng thì Tòa án vẫn phải thực hiện tinh giản, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Trong bối cảnh thẩm quyền của Tòa án được mở rộng và số lượng các loại vụ, việc không ngừng tăng lên đã tạo tình trạng không thể chuyên môn hóa Thẩm phán, thiếu Thẩm phán có trình độ, kỹ năng trong việc giải quyết các loại án đặc thù như sở hữu trí tuệ, thương mại quốc tế, phá sản, môi trường...; hầu hết các Tòa án bị quá tải, phải thường xuyên làm việc, xét xử vào ngày nghỉ để giải quyết công việc kịp thời và đáp ứng thời hạn tố tụng; do áp lực công việc, nhiều Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên đã xin nghỉ việc để tìm kiếm, làm các công việc có mức lương cao và ít áp lực hơn.

Chế độ, chính sách, tiền lương đối với cán bộ, công chức Tòa án

Về chế độ, chính sách, tiền lương đối với cán bộ, công chức TAND vẫn là vấn đề trăn trở, đáng lo ngại, rất bất cập từ xưa đến nay, cụ thể:

Điều 75 Luật Tổ chức TAND đã quy định về một số chế độ, chính sách đối với Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác của Tòa án. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy, khi thi hành công vụ, Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác phải thường xuyên tiếp xúc nhiều với tội phạm, mặt trái của xã hội, tiềm ẩn rủi ro cao, nhiều nguy hiểm. Nhiều trường hợp bị các đương sự tấn công, chống đối, cản trở việc thực thi nhiệm vụ. Tuy nhiên, đến nay cơ chế, biện pháp đảm bảo an toàn cho các chức danh tư pháp tại Tòa án chưa rõ ràng, chưa có chính sách bù đắp những tổn thất về sức khỏe, tinh thần cho những người bị đương sự xâm phạm, nhất là đội ngũ Thẩm phán tạo tâm lý e ngại cho Thẩm phán, cán bộ, công chức khi thực thi nhiệm vụ, công vụ.

Khoản 1 Điều 75, khoản 1 Điều 94 quy định Nhà nước có chính sách ưu tiên về tiền lương, phụ cấp đối với Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án. Tuy nhiên, hiện nay chế độ chính sách, tiền lương đối với Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án còn thấp và có nhiều điểm chưa hợp lý như:

+ Bảng lương áp dụng đối với các chức danh tư pháp của TAND do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định; tuy nhiên về nội dung thì chế độ, tiền lương của các chức danh tư pháp lại giống với bảng lương dành cho công chức trong các cơ quan hành chính, trong đó, hệ số lương khởi điểm của Thư ký, Thẩm tra viên, Thẩm phán sơ cấp là 2,34; Thẩm phán trung cấp (được bổ nhiệm khi đã là Thẩm phán sơ cấp từ đủ 05 năm trở lên) là 4,40; Thẩm phán cao cấp (được bổ nhiệm khi đã là Thẩm phán trung cấp từ đủ 05 năm trở lên) là 6,20. Việc quy định thang bảng lương của Thẩm phán sơ cấp, Thẩm tra viên, thư ký, chuyên viên có hệ số như nhau là chưa phù hợp, chưa xem xét đến tính đặc thù, vị thế của Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác.

+ Về việc hưởng phụ cấp chức danh tư pháp của các Tòa án quân sự chưa thống nhất với TAND. Tại các TAND, chế độ với các ngạch Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên là khác nhau, nhưng tại các Tòa án quân sự thì Thẩm phán sơ cấp, trung cấp, cao cấp đều hưởng chung một chế độ phụ cấp là 15%; Thư ký và Thẩm tra viên là 10%.

+ Khoản 1 Điều 92 Luật Tổ chức TAND quy định có 03 ngạch Thư ký Tòa án là Thư ký viên, Thư ký viên chính và Thư ký viên cao cấp. Tuy nhiên, hiện nay trong thang bảng lương chuyên môn nghiệp vụ của ngành Tòa án lại không quy định bảng lương của Thư ký viên chính và Thư ký viên cao cấp nên thực tiễn hiện nay không thể bố trí nhân sự đã trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch Thư ký viên chính, Thư ký viên cao cấp vào cách ngạch Thư ký viên chính và Thư ký viên cao cấp.

+ Chế độ bồi dưỡng phiên tòa, phiên họp cho Thẩm phán được thực hiện theo Quyết định số 41/2012/QĐ-TTg ngày 05/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng đối với người tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự đến nay đã không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; cần được sửa đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay.

Về Hội thẩm; chế độ, chính sách đối với Hội thẩm

Theo quy định tại Điều 1 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 thì “Luật này quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tố chức bộ máy của TAND; về Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác trong TAND; về bảo đảm hoạt động của TAND ”.

Hội thẩm là người đại diện cho nhân dân tham gia vào việc xét xử tại Tòa án, không thuộc cơ cấu nhân sự của Tòa án và không do Tòa án quản lý. Việc quy định chế định Hội thẩm tại một chương riêng trong Luật Tổ chức TAND (chương VIII) có thể dẫn tới cách hiểu Hội thẩm là một chức danh tư pháp thuộc cơ cấu nhân sự của Tòa án và do Tòa án quản lý, không đúng với bản chất của chế định Hội thẩm nhân dân. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật về Hội thẩm hiện nay đang nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực điều chỉnh khác nhau mà chưa được quy định thống nhất trong một văn bản Luật riêng nên gây khó khăn cho việc xác định địa vị pháp lý cũng như thực thi quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm .

Cơ chế Hội thẩm tham gia hoạt động xét xử tại Tòa án còn có bất cập, chưa thực chất, chưa phát huy được vai trò, hiệu quả như mong đợi. TANDTC đã xây dựng Báo cáo kết quả rà soát văn bản quy phạm pháp luật về Hội thẩm nhân dân, trong đó có đánh giá về những hạn chế, bất cập và đưa ra đề xuất, kiến nghị riêng.[2

Về việc thực hiện công tác thanh tra, giám sát, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo

Công tác kiểm tra, thanh tra, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động công vụ mặc dù đã được tăng cường nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu, ở một số đơn vị tiến hành chưa thường xuyên và thực sự hiệu quả, nên chưa phát huy hết tính tích cực của công tác này trong phòng ngừa và răn đe các hành vi vi phạm của cán bộ, công chức. Việc xử lý các hành vi vi phạm của cán bộ, công chức có lúc, có nơi còn chưa kịp thời, nghiêm minh; chưa đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung, đặc biệt là các hành vi nhũng nhiễu, vi phạm kỷ luật công vụ.

Về hợp tác quốc tế

Nhu cầu hợp tác với nước ngoài của Tòa án Việt Nam phát sinh ngày càng nhiều nhưng số lượng các điều ước quốc tế trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự, dân sự còn ít, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển mạnh mẽ quan hệ về kinh tế, chính trị, ngoại giao... với Việt Nam. Vì vậy, hoạt động hợp tác quốc tế trong giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, vụ án hình sự, hành chính có yếu tố nước ngoài còn nhiều khó khăn, các vụ việc chậm được giải quyết, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam. Thẩm phán và cán bộ Tòa án chưa có nhiều kinh nghiệm về pháp luật nước ngoài và năng lực ngoại ngữ còn hạn chế nên khả năng tham gia các Hội nghị, diễn đàn quốc tế không bảo đảm, dẫn tới không phát huy được những lợi ích trong tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp.

Trong giải quyết vụ việc, hoạt động hợp tác quốc tế của TAND được thực hiện tập trung vào các lĩnh vực như về tố tụng dân sự, về hình sự, về giải quyết yêu cầu dẫn độ của nước ngoài, về giải quyết yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài, về giải quyết yêu cầu tiếp nhận người đang chấp hành hình phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam... Các hoạt động này được TAND tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật tố tụng, pháp luật tương trợ tư pháp, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và theo con đường ngoại giao đối với những nước chưa cùng với Việt Nam là thành viên điều ước quốc tế trong lĩnh vực này. Những hoạt động này đang được thực hiện ngày càng hiệu quả và sẽ gia tăng ngày càng nhiều tuy nhiên việc đánh giá vai trò của hoạt động hợp tác quốc tế chưa được ghi nhận đúng mức, nhiệm vụ, quyền hạn của TAND trong các hoạt động hợp tác quốc tế về các lĩnh vực này chưa được ghi nhận cụ thể trong Luật Tổ chức TAND qua các thời kỳ cũng như Luật Tổ chức TAND hiện hành.

Về việc thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng

Nguồn kinh phí đào tạo, bồi dưỡng còn hạn chế, cơ sở vật chất còn thiếu. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ kế cận, nhất là đội ngũ Thư ký, Thẩm tra viên để bổ nhiệm chức danh Thẩm phán còn rất khó khăn, chưa đáp ứng yêu cầu. Việc đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán theo hướng chuyên môn hóa từng lĩnh vực chưa được chú trọng. Cán bộ, công chức Tòa án hiện nay còn yếu về trình độ ngoại ngữ nhưng chưa được chú trọng đào tạo, bồi dưỡng về lĩnh vực này.

Về cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động của các TAND

Khoản 1 Điều 96 Luật Tổ chức TAND quy định “Kinh phí hoạt động của TANDTC, TAND cấp cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương do Chính phủ trình Quốc hội quyết định sau khi thống nhất với TANDTC. Trường hợp Chính phủ và TANDTC không thống nhất về dự toán kinh phí hoạt động của TAND thì Chánh án TANDTC kiến nghị Quốc hội xem xét, quyết định”. Tòa án là hệ thống cơ quan độc lập với cơ quan lập pháp, hành pháp, không thuộc Chính phủ, không phải cơ quan ngang bộ, ngành. Tuy nhiên, cơ chế phân bổ ngân sách cho Tòa án lại được thực hiện như các cơ quan hành chính, phụ thuộc vào Chính phủ dẫn đến kéo dài quá trình trình, phê duyệt ngân sách, hạn chế việc chủ động quản lý, sử dụng ngân sách của Tòa án trong triển khai các nhiệm vụ. Đặc biệt, cơ chế này cũng dẫn đến nhận thức sai về vai trò của Tòa án, ảnh hưởng đến tính độc lập của Tòa án.

Định mức phân bổ kính phí cho Tòa án đã có chính sách ưu tiên đối với nhóm cơ quan có tính đặc thù, quản lý theo ngành dọc. Tuy nhiên, việc bố trí định mức chi thường xuyên cho Tòa án giống như các cơ quan tham gia thực hiện một số hoạt động tố tụng khác là không phù hợp. Tòa án có vị trí trung tâm, quyết định cuối cùng trong các hoạt động tố tụng và xét xử là hoạt động trọng tâm của cải cách tư pháp; đồng thời, việc xét xử công khai các vụ việc theo luật định sẽ dẫn đến việc tập trung của các bên tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng, cơ quan thông tấn báo chí và người dân quan tâm... tại trụ sở Tòa án. Đồng thời, việc Tòa án được giao thêm các thẩm quyền, hoạt động mới dẫn đến nhu cầu tăng không gian, diện tích làm việc. Do vậy, ngoài diện tích phòng làm việc cho cán bộ Tòa án, trụ sở Tòa án phải bố trí thêm các hội trường xét xử và các phòng chức năng phụ trợ, nên diện tích cần được quy hoạch rộng hơn hiện tại mới đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, chi phí vận hành, duy trì bảo dưỡng trụ sở và phục vụ hoạt động của TAND các cấp sẽ cao hơn các cơ quan tư pháp khác.

Các nội dung kinh phí mang tính đặc thù phục vụ xét xử, tập huấn nghiệp vụ, bồi dưỡng cho các đối tượng thi hành tố tụng tại phiên toà, chi phí vận hành hạ tầng công nghệ thông tin... mặc dù được Toà án nhân dân tối cao xây dựng trong dự toán hằng năm, nhưng do điều kiện ngân sách khó khăn không được Chính phủ và Bộ Tài chính bố trí đủ hoặc bị cắt giảm.

Theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, các TAND không được giao kinh phí dự phòng trong năm và khi phân bổ giao ngân sách cho các đơn vị dự toán cấp dưới cũng phải thực hiện phân bổ hết (không được để lại dự phòng để giao sau). Thực tế hoạt động của các TAND đến tất cả các quận huyện, các phát sinh trong năm là thường xuyên (do thiên tai, do bổ sung nhiệm vụ,.) nhưng kinh phí được ngân sách nhà nước cấp phải giao hết từ đầu năm, vì vậy trong điều hành ngân sách thiếu tính chủ động khi có các nhiệm vụ mới phát sinh phải báo cáo Bộ Tài chính, Chính phủ để được giải quyết nhiều lúc không kịp thời so yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

Các chế độ chi cho con người, chi cho các nhiệm vụ đặc thù chậm được điều chỉnh cho phù hợp thực tế (chế độ bồi dưỡng phiên tòa cho Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm.... theo Quyết định số 41/2012/QĐ-TTG ngày 05/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng đối với người tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự chậm được sửa đổi) do Chính phủ tạm dừng ban hành, sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính sách tiền lương hiện hành trong thời gian xây dựng quy định chế độ tiền lương mới để thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII).

Hầu hết trang thiết bị làm việc được trang cấp từ lâu và có tần suất sử dụng cao do lượng án thụ lý, xét xử lớn, người dân đến tham dự phiên tòa đông; nhiều tài sản đã hết khấu hao, hư hỏng, xuống cấp; số lượng xe ô tô hiện có chưa đáp ứng được nhu cầu công vụ[3]. Trong quá trình thi hành công vụ, các TAND cấp huyện chưa được trang bị xe ô tô phải đi thuê phương tiện bên ngoài, việc thuê xe thường xuyên bị động và không đảm bảo an toàn về người và tài liệu, đã gây nhiều khó khăn cho các đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.

Một số địa phương không thống nhất quan điểm xử lý cơ sở nhà, đất dôi dư, từ đó dẫn đến tình trạng một số cơ sở nhà, đất đang bỏ trống, không sử dụng hoặc sử dụng không có hiệu quả nhưng không được bán, gây lãng phí về tài sản. Đối với cơ sở nhà, đất được Bộ Tài chính hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép bán đấu giá tài sản trên đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thực tế khi triển khai vướng rất nhiều quy định, thủ tục trước khi tổ chức bán đấu giá, dẫn đến việc tổ chức triển khai bán còn chậm, không kịp thời, không đảm bảo thời gian quy định, chưa phát huy được nguồn lực từ việc sắp xếp, bán trụ sở dôi dư.

Hệ thống TAND có hơn 20% phòng xử án vẫn đang là nhà cấp 4, trên 50% đã được xây dựng từ 2002, có những trụ sở được xây dựng từ đầu những năm 1990, nên đã xuống cấp trầm trọng, có diện tích chật hẹp, không đảm bảo an toàn, không đáp ứng được các quy định hiện hành của pháp luật tố tụng và yêu cầu thực tiễn của công tác xét xử trong giai đoạn hiện nay cũng như trong thời gian tới... gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả, tiến độ thụ lý, giải quyết các loại vụ án, vụ việc của TAND. Kinh phí bảo trì, sửa chữa hằng năm còn nhiều hạn chế, chỉ đáp ứng được khoảng 35% yêu cầu. Do vậy, các trụ sở làm việc và hệ thống phòng xét xử tới niên hạn cần sửa chữa còn gặp nhiều khó khăn. Kinh phí chỉ đủ để khắc phục tạm thời các hư hỏng nhỏ, chưa thể giải quyết, khắc phục được triệt để những hạng mục hư hỏng, xuống cấp lớn.

Việc bố trí cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ thi hành Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án gặp nhiều khó khăn, không bảo đảm các yêu cầu theo quy định của Luật về phòng hòa giải.

Đối với công tác may sắm trang phục cho cán bộ công chức, thẩm phán của hệ thống, do đơn giá các chủng loại trang phục từ năm 2013 đến nay không thay đổi, vẫn giữ nguyên, trong khi đó giá cả hàng hóa trên thị trường liên tục tăng cao nên gây ảnh hưởng nhiều đến chất lượng trang phục.

Về nguồn vốn đầu tư: Nguồn vốn đầu tư công nhà nước phân bổ cho hệ thống TAND hàng năm và trong giai đoạn trung hạn 2016-2020 chỉ đáp ứng khoảng 50% yêu cầu đầu tư. Trong các báo cáo xây dựng kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2016-2020, còn nhiều trụ sở TAND đề xuất đầu tư mới nhưng do nguồn vốn đầu tư công bố trí còn hạn hẹp nên các dự án này chưa được đầu tư. Việc huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách trung ương để đầu tư xây dựng trụ sở TAND các cấp gặp nhiều khó khăn.

Quy mô trụ sở TAND các cấp thay đổi theo quy định mới của Luật Tổ chức TAND và các đạo luật tố tụng dẫn đến tổng mức đầu tư của các dự án tăng so với giai đoạn trước: Theo quy định từ năm 2015 trở về trước, các dự án của hệ thống TAND triển khai chỉ đầu tư trung bình từ 03 đến 04 phòng xử án đối với dự án xây dựng Tòa án cấp tỉnh; 02 đến 03 phòng xử án đối với dự án xây dựng Tòa án cấp huyện và các phòng chức năng đi kèm bao gồm phòng nghị án, phòng lưu phạm, phòng công an. Các phòng xét xử án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, hôn nhân và gia đình chưa có sự phân biệt về cơ cấu, mô hình, số lượng người tham gia tố tụng.

Kể từ khi Luật Tổ chức TAND năm 2014 và các đạo luật tố tụng mới được ban hành, cơ cấu tổ chức trong công tác xét xử đã thay đổi để phù hợp với từng loại vụ việc; dẫn đến sự phân biệt về mô hình, cơ cấu công năng các phòng xét xử án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động và hành chính, gia đình và người chưa thành niên (theo Thông tư số 01/2017/TT- TANDTC ngày 28/7/2017 của Chánh án TANDTC về quy định về phòng xét xử). Do đó, tùy theo lượng án phải xử lý hàng năm, mỗi TAND phải có tối thiểu 01 phòng xét xử án hình sự, 01 phòng xét xử án dân sự, 01 phòng xét xử án hành chính, lao động, 01 phòng xét xử án gia đình và người chưa thành niên. Ngoài ra, theo quy định của pháp luật về điều tra, xét xử, quy định về trình tự tố tụng, quy định vể xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng... đều đề cập vấn đề bảo vệ người làm chứng, bảo đảm tính khách quan, tách bạch giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia tố tụng, bảo đảm việc tranh tụng tại Tòa án, bảo đảm phọng tạm giữ người vi phạm. thì việc phải bổ sung thêm các phòng chức năng khác ngoài phòng xét xử là thực sự cần thiết.

Bên cạnh đó, để đảm bảo tính thân thiện trong việc xét xử các vụ án ly hôn và người chưa thành niên cần có phòng xét xử thân thiện[4]; phòng hòa giải, đối thoại[5], do đó nhu cầu về quy mô hiện tại của trụ sở TAND các cấp lớn hơn so với giai đoạn trung hạn 2016-2020, dẫn đến tổng mức của các dự án tăng, yêu cầu về vốn đầu tư lớn hơn so với các giai đoạn trước, cần tăng tiêu chuẩn, định mức trụ sở làm việc cho các Tòa án mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

Trụ sở Tòa án bị xuống cấp và thay đổi vị trí theo quy hoạch: hiện nay trong hệ thống TAND còn rất nhiều trụ sở làm việc được xây từ những năm đầu 1990 đang bị xuống cấp nghiêm trọng, lượng án tăng, thiếu phòng xét xử, cần phải được xây mới. Ngoài ra, do mô hình trụ sở Tòa án hai cấp có nhu cầu về diện tích đất lớn nên một số vùng miền núi khó bố trí, một số nơi phải thay đổi quy hoạch, vị trí mới đáp ứng được diện tích đất.

Khó khăn, vướng mắc, phát sinh trong quá trình thực hiện dự án: Theo quy định của Luật Xây dựng năm 2014, công tác quản lý dự án các công trình xây dựng trụ sở làm việc sử dụng ngân sách nhà nước thuộc hệ thống TAND phải do Ban Quản lý dự án chuyên ngành của Tòa án án nhân dân tối cao thực hiện. Tuy nhiên, do biên chế bị cắt giảm theo Nghị quyết số 39- NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, TANDTC chưa thành lập được Ban Quản lý dự án chuyên ngành. Chủ đầu tư là các Tòa án địa phương phải ủy thác cho Ban Quản lý dự án chuyên ngành của các địa phương quản lý dự án. Việc ủy thác cho Ban quản lý dự án địa phương để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án chưa kịp thời, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện của một số dự án và kết quả giải ngân theo kế hoạch. Chủ đầu tư vừa làm công tác chuyên môn, vừa kiêm nhiệm công tác quản lý vốn nên hạn chế về trình độ chuyên môn, năng lực, kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện. Một số đơn vị chưa chủ động triển khai thực hiện khi được giao kế hoạch; không chủ động đề xuất điều chuyển vốn khi không có khả năng thực hiện hết kế hoạch, để dồn vào thời điểm cuối năm mới điều chỉnh.

Về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của TAND

Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Tòa án còn chưa đáp ứng được yêu cầu công tác của Tòa án, cụ thể:

Về cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin của Tòa án các cấp: tính đến thời điểm hiện nay, ngoại trừ TANDTC, TAND Thành phố Hồ Chí Minh được đầu tư trang bị cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cơ bản, các Tòa án còn lại hạ tầng công nghệ thông tin còn rất hạn chế; phòng xét xử chưa được trang bị đầy đủ thiết bị công nghệ thông tin; hệ thống mạng nội bộ kết nối thẳng Internet, không có máy chủ quản lý và thiết bị bảo mật nên nguy cơ mất an toàn, an ninh thông tin dữ liệu cao.

Về nguồn nhân lực công nghệ thông tin: nguồn nhân lực về công nghệ thông tin của Tòa án địa phương còn thiếu và yếu; chủ yếu là kiêm nhiệm, không ổn định nên ảnh hưởng rất lớn đến công tác triển khai ứng dụng công nghệ thông tin; chế độ chính sách chưa thu hút được lao động có trình độ công nghệ. Địa vị pháp lý của đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin của TANDTC là đơn vị cấp phòng cũng chưa ngang tầm với nhiệm vụ và mục tiêu xây dựng Tòa án điện tử trong thời gian tới.

Về nền tảng pháp lý: nhiều hoạt động tố tụng chưa được luật quy định theo hướng cho phép ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện. Ví dụ: ngoài đơn khởi kiện thì chưa quy định nộp bằng hình thức trực tuyến đối với các đơn khác (đơn kháng cáo, đơn yêu cầu, đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm...); chưa quy định đầy đủ về việc sử dụng hồ sơ điện tử, chữ ký điện tử, chứng cứ điện tử...

Về công tác thi đua khen thưởng

Nhiệm vụ của các Phòng chức năng trong Đơn vị còn có sự chồng chéo, biên chế được giao chưa đủ để đáp ứng yêu cầu khối lượng công việc ngày càng tăng trong giai đoạn hiện nay.

Đời sống công chức còn khó khăn, nhất là công chức trẻ, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động công vụ nói chung, chưa khai thác cũng như phát huy được đầy đủ sở trường, năng lực của công chức.

Một số cơ quan, đơn vị tổ chức phát động phong trào thi đua còn chung chung, hình chức, chưa có tiêu chí, chỉ tiêu thi đua cụ thể, rõ ràng hoặc không gắn với chức năng, nhiệm vụ chuyên môn, đặc điểm tình hình của cơ quan, đơn vị. Việc sơ kết, tổng kết, gửi báo cáo đánh giá kết quả thực hiện phong trào thi đua về TANDTC còn chậm, chưa kịp thời. Do đó, chất lượng, hiệu quả phong trào thi đua đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn còn hạn chế. Một số cơ quan, đơn vị chưa hoàn thành đạt chỉ tiêu thi đua về công tác chuyên môn trên một số lĩnh vực công tác cụ thể.

Công tác khen thưởng còn tập trung nhiều vào cán bộ lãnh đạo, quản lý. Số lượng công chức, viên chức, người lao động trực tiếp được khen thưởng tuy có chuyển biến nhưng chưa đáp ứng yêu cầu.

Công tác xây dựng điển hình tiên tiến cũng như tuyên truyền vẫn còn hạn chế. Chưa có nhiều gương điển hình tiên tiến, mô hình mới, nhân tố mới được phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng.

2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc

Về những hạn chế, bất cập nêu trên, bên cạnh những nguyên nhân khách quan như: nhiệm vụ mà Tòa án được giao ngày càng nặng nề; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các Tòa án còn khó khăn, thiếu thốn; đòi hỏi của nhân dân và xã hội đối với công tác Tòa án ngày càng cao; tình hình diễn biễn tội phạm và những tranh chấp phát sinh trong xã hội ngày càng phức tạp; sự phối hợp trong công tác của các cơ quan hữu quan với Tòa án còn có những bất cập, thì nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, bất cập trong tổ chức và hoạt động của Tòa án các cấp xuất phát từ các quy định của pháp luật hiện hành về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Tòa án từng cấp còn chưa hợp lý, chưa tạo được cơ sở pháp lý, cơ chế và điều kiện thuận lợi để các Tòa án thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ được giao. Đáng lưu ý, việc Hiến pháp, Luật tổ chức TAND đã quy định Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, nhưng những thiết chế về chế độ chính sách vẫn chưa được quan tâm và đáp ứng đúng với chức năng, nhiệm vụ của TAND nên thực tiễn địa vị chính trị của TAND trong hệ thống chính trị vẫn chưa thực sự được thể hiện rõ. Từ đó, việc xử lý các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức và bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động của Tòa án, chế độ, chính sách cho Thẩm phán, Hội thẩm và cán bộ, công chức Tòa án còn nhiều bất cập, không tương xứng với vị trí, vai trò của cơ quan Tòa án trong bộ máy nhà nước, chưa đáp ứng được các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của TAND theo tinh thần cải cách tư pháp.

3. Đề xuất, kiến nghị sửa đổi bổ sung

Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân cần đưa ra các đề xuất, kiến nghị, tập trung vào một số nội dung trọng tâm như sau:

Hoàn thiện Luật Tổ chức TAND năm 2014 và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật

Về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa án

Đề nghị bổ sung các quy định về nội hàm quyền tư pháp; đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp; cơ quan tư pháp; các nguyên tắc tư pháp, cụ thể như sau:

- Bổ sung quy định về nội hàm quyền tư pháp theo hướng: Quyền tư pháp bao gồm quyền xét xử và phán quyết; quyền tổng kết thực tiên xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; quyền xây dựng và phát triển án lệ; quyền giám sát thi hành án; quyền quyết định những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân; quyền quyết định tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật.

Bổ sung quy định về đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp theo hướng: Quyền tư pháp có 06 đặc trưng cơ bản sau: (1) Được thực hiện bởi các Tòa án độc lập chỉ tuân theo pháp luật; (2) Được thực hiện theo một quy trình tố tụng nghiêm ngặt; (3) Có hiệu lực bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành; (4) Được bảo đảm thi hành bằng quyền lực nhà nước trong phạm vi toàn quốc bởi cơ quan thi hành án chuyên trách; (5) Phán quyết tư pháp không bị thay đổi tuỳ tiện trừ khi bị chính Toà án thay đổi, huỷ bỏ theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục luật định; (6) Phán quyết tư pháp khi đã tuân thủ đầy đủ quy trình tố tụng nhưng có sai sót không phải do lôi chủ quan thì được miên trừ trách nhiệm; chỉ bị kháng cáo, kháng nghị.

Bổ sung quy định về Cơ quan tư pháp theo hướng TAND là cơ quan tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là chủ thể duy nhất thực hiện quyền tư pháp;

Sửa đổi quy định về một số nguyên tắc tư pháp như nguyên tắc bảo đảm tính độc lập của Tòa án trong tổ chức và hoạt động; Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm để làm rõ nội hàm của các nguyên tắc tư pháp nêu trên.

Bổ sung một số nguyên tắc tư pháp như: Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án; Bản án, quyết định của Toà án chỉ bị thay đổi, huỷ bỏ bởi Toà án theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục luật định; Xem xét lại bản án, quyết định theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm; Miễn trừ trách nhiệm khi ra bản án, quyết định có sai sót không phải do lỗi chủ quan; Trách nhiệm chứng minh và bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính.

Nghiên cứu việc thành lập Hội đồng Tư pháp quốc gia

Nghiên cứu, bổ sung quy định về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, thành phần, nguyên tắc hoạt động của Hội đồng Tư pháp Quốc gia theo hướng:

Hội đồng Tư pháp Quốc gia có nhiệm vụ xây dựng chiến lược phát triển TAND; xây dựng chế độ, chính sách cho Thẩm phán TAND và các chức danh tư pháp khác; thực hiện việc tuyển chọn, giám sát, khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán TAND.

Hội đồng Tư pháp Quốc gia do Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng, Chánh án TANDTC là Phó Chủ tịch Hội đồng, các thành viên gồm đại diện lãnh đạo một số Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Văn phòng Chủ tịch nước, Ban Chấp hành Trung ương Hội Luật gia Việt Nam, TANDTC, Tòa án quân sự trung ương và các Chánh án TAND cấp cao.

Hoàn thiện quy định về chức năng, nhiệm vụ của các TAND theo hướng như sau:

Xác định thẩm quyền của Tòa án theo cấp xét xử, theo đó, phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm mà không theo cấp hành chính như hiện nay, cụ thể:

+ Cấp xét xử sơ thẩm: có nhiệm vụ xem xét, đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ để xác định tình tiết, sự thật, tính có căn cứ của vụ án và áp dụng pháp luật. Bổ sung và làm rõ nội hàm của nhiệm vụ xác định sự thật của vụ án, theo đó, Tòa án có nhiệm vụ xác định các tình tiết, sự thật, tính có căn cứ của vụ án; loại trừ các yếu tố không phải sự thật của vụ án; xem xét đủ hay không đủ điều kiện, tiêu chí để khẳng định sự thật vụ án, trên cơ sở đó để ra phán quyết.

+ Cấp xét xử phúc thẩm: có nhiệm vụ giải quyết vướng mắc về xác định sự thật và áp dụng pháp luật của cấp sơ thẩm.

Hoàn thiện quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, theo đó cấp giám đốc thẩm chỉ xem xét lại việc áp dụng pháp luật của cấp sơ thẩm, phúc thẩm mà không thu thập tài liệu, chứng cứ. Quy định chặt chẽ hơn nữa căn cứ kháng nghị, phạm vi xét xử giám đốc thẩm chỉ hướng tới giải quyết những vụ án có ảnh hưởng lớn trong xã hội, vụ án có vấn đề nghiêm trọng về áp dụng pháp luật; hạn chế giám đốc thẩm, tái thẩm, bảo đảm tố tụng có điểm dừng và không bị lạm dụng trở thành một cấp xét xử thứ ba. Bỏ thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC, xác lập điểm dừng trong xét xử, để bảo đảm bản án có hiệu lực pháp luật được thi hành, tránh thủ tục tố tụng kéo dài, không thể kết thúc dẫn đến nhiều hệ lụy, làm mất lòng tin của người dân và xã hội vào cơ quan tiến hành tố tụng.

Bổ sung nhiệm vụ xem xét, quyết định việc hạn chế quyền con người của đương sự, bị can, bị cáo theo quy định của luật cho Tòa án .

Sửa đổi, bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ của TAND cấp cao theo hướng: TAND cấp cao có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND sơ thẩm chuyên biệt thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng cáo, kháng nghị; xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND sơ thẩm và TAND sơ thẩm chuyên biệt thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị.

Sửa đổi, bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ của TAND phúc thẩm theo hướng: TAND phúc thẩm có nhiệm vụ chính yếu là xét xử phúc thẩm các vụ án của TAND sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị.

Sửa đổi, bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ của TAND sơ thẩm theo hướng: TAND sơ thẩm có nhiệm vụ giải quyết, xét xử sơ thẩm các vụ việc theo quy định của pháp luật, trừ các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND sơ thẩm chuyên biệt.

Bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ của TAND sơ thẩm chuyên biệt theo hướng: TAND sơ thẩm chuyên biệt có chức năng, nhiệm vụ xét xử sơ thẩm các loại vụ việc đặc thù theo từng lĩnh vực (sở hữu trí tuệ, hành chính, phá sản, môi trường).

Cân nhắc quy định cụ thể về việc tổ chức xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương bằng Hội đồng xét xử gồm 03 Thẩm phán theo quy định tại Điều 32, Điều 53 Luật Tổ chức TAND năm 2014.

Về tổ chức bộ máy của các Tòa án

Sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức bộ máy của TAND theo hướng: Hệ thống Tòa án được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, gồm: TANDTC; TAND cấp cao; TAND phúc thẩm; TAND sơ thẩm, TAND sơ thẩm chuyên biệt; Tòa án quân sự. Trong đó:

TANDTC về cơ bản vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức như hiện hành nhưng có kiện toàn, tổ chức lại bộ máy giúp việc cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao;

TAND cấp cao được tổ chức trên cơ sở các TAND cấp cao hiện tại, có bổ sung quy định về việc thành lập thêm các Tòa chuyên trách về Sở hữu trí tuệ, Môi trường, Phá sản để xét xử theo thủ tục phúc thẩm đối với các vụ án của TAND sơ thẩm chuyên biệt bị kháng cáo, kháng nghị.

TAND phúc thẩm được tổ chức tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trên cơ sở bổ sung, điều chỉnh một cách thích hợp chức năng, nhiệm vụ của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hiện nay.

TAND sơ thẩm được tổ chức tại các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên cơ sở bổ sung, điều chỉnh một cách thích hợp chức năng, nhiệm vụ của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hiện nay. TAND sơ thẩm có Tòa chuyên trách và Tòa giản lược. Tòa giản lược có nhiệm vụ xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự ít nghiêm trọng, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú và có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng; Xét xử sơ thẩm các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động có giá trị không lớn theo quy định của pháp luật; Xem xét, quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; Giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật.

TAND sơ thẩm chuyên biệt được được tổ chức theo địa hạt pháp lý nhiều tỉnh, thành phố tùy thuộc vào khối lượng công việc của mỗi loại vụ việc, gồm: TAND sơ thẩm Sở hữu trí tuệ, TAND sơ thẩm hành chính, TAND sơ thẩm Phá sản, TAND sơ thẩm Môi trường.

Về Thẩm phán và cán bộ, công chức Tòa án; chế độ, chính sách đối với Thẩm phán và cán bộ, công chức Tòa án

Đối với chức vụ Chánh án, Phó Chánh án

Khoản 1 Điều 28 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định: “Phó Chánh án TANDTC được Chủ tịch nước bố nhiệm trong số các Thẩm phán TANDTC ”.

Tuy nhiên, tại các quy định khác của Luật về Chánh án TAND cấp cao (Điều 35), Phó Chánh án TAND cấp cao (Điều 36), Chánh án TAND cấp tỉnh (Điều 42), Phó Chánh án TAND cấp tỉnh (Điều 43), Chánh án TAND cấp huyện (Điều 47), Phó Chánh án TAND cấp huyện (Điều 48), đều không quy định rõ các chức vụ này phải là Thẩm phán.

Khoản 1 Điều 31 Luật tổ chức TAND năm 2014 còn quy định: “Uy ban Thẩm phán TAND cấp cao gồm Chánh án, các Phó Chánh án là Thẩm phán cao cấp và một số Thẩm phán cao cấp do Chánh án TANDTC quyết định theo đề nghị của Chánh án TAND cấp cao ”.

Như vậy, quy định của Luật là chưa rõ ràng và chưa có sự thống nhất. Cần quy định rõ các chức vụ Chánh án, Phó Chánh án phải gắn với chức danh Thẩm phán.

Đổi với thẩm phán

  • Cơ cấu Thẩm phán

+ Đổi mới cơ cấu ngạch, bậc Thẩm phán theo hướng, Thẩm phán bao gồm Thẩm phán tối cao, Thẩm phán và Thẩm phán tập sự. Trong đó, Thẩm phán tối cao do Quốc hội bầu, Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Chánh án TANDTC; Thẩm phán tập sự do Chánh án TANDTC bổ nhiệm. Sửa đổi Điều 65 Luật tổ chức TAND năm 2014 theo hướng làm rõ khái niệm Thẩm phán, theo đó, Thẩm phán không chỉ thực hiện nhiệm vụ xét xử, mà còn thực hiện các nhiệm vụ khác như nghiên cứu vụ, việc để phục vụ xét xử, phát triển án lệ, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật...

+ Đề nghị sửa đổi Điều 66 Luật tổ chức TAND năm 2014 theo hướng, Thẩm phán các ngạch, bậc được bố trí ở tất cả các cấp Tòa án (ngoại trừ Thẩm phán tối cao), để bảo đảm thu hút những cán bộ có năng lực, kinh nghiệm xét xử làm nhiệm vụ tại TANDTC; cũng như đảm bảo tính kế thừa trong công tác cán bộ.

+ Đề nghị sửa đổi Điều 69 quy định điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao: “Đã là Thẩm phán cao cấp từ đủ 05 năm trở lên hoặc đã là Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh trở lên”.

  • Công tác tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán

+ Mở rộng nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán, không chỉ giới hạn trong số cán bộ, công chức của Tòa án mà cần hướng tới những chuyên gia pháp lý trong các lĩnh vực chuyên biệt như sở hữu trí tuệ, phá sản, thương mại quốc tế. để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

+ Đề nghị cân nhắc sửa đổi khoản 6 Điều 68 Luật tổ chức TAND năm 2014 theo hướng trong trường hợp đặc biệt, người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều động đến để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo các TAND, tuy chưa đủ thời gian làm công tác pháp luật nhưng có đủ các tiêu chuẩn quy định tại các khoản 1, 2, 4, 5 Điều 67 của Luật này và điều kiện quy định tại điểm b khoản 1, điểm b khoản 2, điểm c khoản 3, điểm b khoản 4 Điều 68 thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán và sẽ được tạo điều kiện thuận lợi để được đào tạo nghiệp vụ xét xử sớm nhất (nếu chưa được đào tạo).

+ Nghiên cứu đổi mới quy trình bổ nhiệm đối với từng ngạch Thẩm phán. Xây dựng cơ chế đánh giá Thẩm phán khoa học, hợp lý, khách quan, coi kết quả đánh giá là cơ sở quan trọng trong việc nâng ngạch, bậc Thẩm phán.

  • Chế độ, chính sách

+ Đề nghị cân nhắc sửa đổi Điều 74 Luật tổ chức TAND năm 2014 theo hướng bổ nhiệm Thẩm phán không có nhiệm kỳ (bổ nhiệm suốt đời) nhằm tạo điều kiện cho Thẩm phán trau dồi kinh nghiệm, kỹ năng xét xử. Đối với những Thẩm phán không đủ điều kiện đã có quy định về cách chức Thẩm phán theo quy định tại Điều 82 của Luật.

+ Thẩm phán là một nghề đặc thù, không chỉ tiềm ẩn nhiều nguy hiểm mà còn là nghề có nhiều cám dỗ, dẫn đến làm thay đổi sự thật của vụ án. Nhưng bảng lương chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán được xếp tương đương với bảng lương công chức hành chính, là chưa tương xứng với trọng trách họ được giao. Do đó, cần xây dựng chế độ tiền lương và các phúc lợi xã hội, bảo hiểm nghề nghiệp, khen thưởng, vinh danh của Thẩm phán riêng biệt. Trong đó, quy định một cách toàn diện về chế độ, chính sách khác thể hiện tính đặc thù và không dựa trên bậc lương của công chức hành chính; có chính sách đãi ngộ về nhà ở công vụ đối với Thẩm phán khi thực hiện nhiệm vụ biệt phái. Hoàn thiện chế độ khen thưởng, vinh danh thẩm phán; quy định rõ tiêu chuẩn, điều kiện và thủ tục khen thưởng, vinh danh đối với thẩm phán, nâng cao niềm tự hào nghề nghiệp của Thẩm phán.

  • Xây dựng cơ chế bảo vệ Thẩm phán

+ Bổ sung quy định về quyền miễn trừ của Thẩm phán.

+ Xây dựng cơ chế chính sách người có công đối với Thẩm phán bị tổn hại sức khỏe, tính mạng vì lý do thực hiện công vụ.

+ Xây dựng cơ chế thông báo, giải thích đối với những tố cáo không có thực nhằm vào Thẩm phán.

+ Sửa đổi, bổ sung quy định về chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ đối với Thẩm phán theo hướng xác định khung lương đối với từng chức danh, tiến tới xây dựng chế độ tiền lương và các phúc lợi xã hội, bảo hiểm nghề nghiệp, khen thưởng, vinh danh của Thẩm phán riêng biệt.

Đối với công chức Tòa án khác

Đề nghị cải cách chế độ chính sách tiền lương của cán bộ công chức Tòa án phù hợp với đặc thù hoạt động chuyên môn. Chế độ tiền lương, phụ cấp đối với các chức danh tư pháp khác cần được quy định theo ngạch, bậc lương riêng biệt. Đồng thời có các chế độ đãi ngộ thoả đáng để đáp ứng được yêu cầu công tác xét xử và tương xứng với vị trí, vài trò và tính chất hoạt động của Toà án trong bộ máy nhà nước. Đối với Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án làm việc trong các Tòa án quân sự cần được áp dụng mức phụ cấp trách nhiệm như Thẩm tra viên, Thư ký TAND; bảo đảm cho tất cả công chức có chức danh tư pháp trong quân đội đều được hưởng phụ cấp đặc thù ngành.

Đề nghị cân nhắc bố trí nhà công vụ để tạo điều kiện cho việc thực hiện luân chuyển cán bộ; đồng thời, cân nhắc việc tăng cường hỗ trợ kinh phí đối với cán bộ trong thời gian luân chuyển, biệt phái thực hiện công tác xét xử.

Về việc thực hiện công tác thanh tra, giám sát Thẩm phán, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo

Để tạo thuận lợi cho công tác tiếp công dân, tránh trường hợp công dân bức xúc khi hỏi tiến độ, thông tin, kết quả giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm tại TANDTC, đề nghị Văn phòng và Vụ Tổng hợp kết nối phần mềm theo dõi việc nhận đơn, giải quyết đơn giám đốc thẩm tại TANDTC cho Ban Thanh tra để phục vụ công tác tiếp công dân, cung cấp thông tin cho công dân đến làm việc theo đúng quy định của pháp luật.

Nghiên cứu để điều chỉnh lại nhiệm vụ tiếp công dân của TANDTC về một đầu mối với bộ phận tiếp nhận, xử lý đơn hành chính tư pháp, bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp công dân, phù hợp với yêu cầu đổi mới thủ tục hành chính tư pháp mà TANDTC đang triển khai thực hiện mà còn tạo thuận lợi trong việc quản lý, theo dõi, phân loại và cuối cùng là việc giải quyết nhanh các yêu cầu của người gửi đơn. Tránh việc đơn đi lòng vòng, chỉ một đơn nhưng nhiều nơi xử lý, quản lý, theo dõi...

Đề nghị sớm hoàn thiện phần mềm Giám sát Thẩm phán để phục vụ công tác giám sát Thẩm phán theo quy định. Xây dựng Quy chế về giám sát Thẩm phán TAND các cấp (trừ Thẩm phán TANDTC);

Quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục, điều kiện chấm dứt việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tố tụng tại Tòa án, nhất là đối với kiến nghị, đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;

Tăng cường công tác tập huấn về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác kê khai tài sản, thu nhập; công tác giám sát Thẩm phán; công tác thanh tra kiểm tra trong hệ thống TAND.

Nghiên cứu, đổi tên gọi “Ban Thanh tra TANDTC” thành tên gọi “Thanh tra TANDTC”; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra TAND TANDTC đáp ứng yêu cầu chung của Tòa án, xu hướng cải cách tư pháp đang được xây dựng trình Bộ Chính trị.

Về Hợp tác quốc tế

Đề nghị bổ sung vào Luật tổ chức TAND (sửa đổi) một Phần về Hợp tác quốc tế. Theo đó quy định cụ thể về các vấn đề như: Phạm vi hợp tác quốc tế trong hoạt động của TAND; Nguyên tắc hợp tác quốc tế trong hoạt động của TAND và TAND có thẩm quyền về hợp tác quốc tế với nước ngoài.

Về cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động của các TAND

Về quy trình phân bổ ngân sách cho hệ thống Tòa án: Nghiên cứu, ban hành quy định TANDTC có trách nhiệm đề xuất dự toán ngân sách hàng năm của toàn hệ thống, trình Quốc hội xem xét, thông qua. Toàn bộ ngân sách hoạt động của hệ thống Tòa án do Quốc hội phân bổ cho TANDTC và TANDTC chịu trách nhiệm phân bổ cho Tòa án các cấp. Cơ chế này là phù hợp với cơ chế phân bổ biên chế đối với Tòa án (hiện nay do Quốc hội quyết định); đồng thời, khắc phục triệt để tình trạng phụ thuộc tài chính của Tòa án các cấp đối với Chính quyền địa phương. Cơ chế phân bổ ngân sách này sẽ góp phần giúp các Tòa án giảm bớt những khó khăn về nguồn lực, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ thường xuyên cũng như các yêu cầu, nhiệm vụ mới của cải cách tư pháp, đặc biệt là bảo đảm tính độc lập của Tòa án.

Về định mức chi hoạt động thường xuyên của Tòa án: Quy định định mức phân bổ ngân sách hoạt động thường xuyên cho các TAND theo hướng mỗi cấp, mỗi loại Tòa án có một định mức riêng sau khi tính đủ các chi phí bảo đảm cho hoạt động của đơn vị; giao thẩm quyền cho Quốc hội (Ủy ban Thường vụ Quốc hội) quyết định định mức chi bảo đảm hoạt động thường xuyên cho TAND.

Về chế độ chi cho các nhiệm vụ đặc thù của Tòa án: Quy định riêng về kinh phí chi đặc thù bên cạnh định mức chi thường xuyên (có thể tính theo định biên) và được Quốc hội (Ủy ban Thường vụ Quốc hội) phê duyệt theo yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ trên cơ sở đề nghị của TANDTC.

Xây dựng và triển khai Đề án tổng thể về cải tạo, mở rộng trụ sở và trang bị nội thất phòng xử án đảm bảo khang trang, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Phấn đấu trong giai đoạn 2021-2030 hoàn thành công tác đầu tư, xây dựng các trụ sở làm việc TAND cấp tỉnh; đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ thông tin; ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác xét xử theo tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng XIII. Trong đó:

+ Thực hiện tốt công tác quy hoạch tổng thể các trụ sở làm việc của hệ thống Tòa án cả nước.

+ Xây dựng Chiến lược tổng thể về phát triển công nghệ thông tin của Tòa án và Đề án Tòa án điện tử hướng tới Tòa án số ở Việt Nam; nghiên cứu, triển khai một số đề án, dự án quan trọng khác như: Đề án trang bị thiết bị công nghệ thông tin cho phòng xét xử của Tòa án các cấp để thực hiện việc nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh nội dung hỏi cung bị can tại phiên Tòa theo quy định của Bộ luật T ố tụng hình sự năm 2015; Dự án mua sắm, lắp đặt trang thiết bị cho trung tâm dữ liệu và hệ thống giám sát an ninh mạng của TAND; Đề án quy hoạch tổng thể và hiện đại hóa kho lưu trữ hồ sơ TAND các cấp...

+ Tiếp tục kiện toàn cơ cấu tổ chức, địa vị pháp lý và nguồn nhân lực của đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý, vận hành Tòa án điện tử ở Việt Nam.

Bảo đảm cấp đủ kinh phí để thực hiện Đề án trang bị cơ sở vật chất phục vụ thi hành Luật Hòa giải, đối thoại tại hệ thống TAND, Đề án trang bị phương tiện làm việc giai đoạn IV, Đề án bảo trì sửa chữa trụ sở làm việc và hệ thống phòng xét xử giai đoạn I (2022-2026) và các Đề án khác của hệ thống TAND.

Bố trí quỹ đất cho hệ thống TAND thực hiện việc đầu tư, xây dựng, cải tạo, mở rộng trụ sở làm việc và hệ thống phòng xét xử.

Xây dựng cơ sở pháp lý về cơ chế sử dụng nguồn ngân sách địa phương hỗ trợ và nguồn kinh phí hợp pháp khác

+ Theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đã có chủ trương để địa phương hỗ trợ ngân sách địa phương từ phần vượt thu, nhưng do chưa được thể chế hóa bằng văn bản quy phạm pháp luật nên các địa phương còn chưa có cơ sở để thực hiện (mặc dù có nhiều địa phương có khả năng về ngân sách sẵn sàng hỗ trợ kinh phí cho TAND). Do vậy, cần thể chế hóa chủ trương trên của Đảng thành các quy định này trong Luật Ngân sách Nhà nước và không chỉ giới hạn ở phần nguồn vượt thu mà nên mở rộng cả các nguồn hợp pháp khác do Ủy ban nhân dân các địa phương cân đối.

Xây dựng cơ chế cho phép hệ thống TAND được sử dựng nguồn thu từ án phí, lệ phí Tòa án và nguồn thu từ các vụ án hình sự trong một số năm để tạo nguồn kinh phí đẩy nhanh tiến độ tái đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, mua sắm, sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn tài sản... của TAND các cấp.

Quy định mới về giao kinh phí dự phòng trong năm theo hướng: Nhà nước giao ngân sách hàng năm cho các TAND, có từ 02% đến 4% kinh phí dự phòng trên tổng chi thường xuyên. Thẩm quyền quyết định sử dụng chi sẽ do Bộ Tài chính thống nhất với TANDTC trình Chính phủ quyết định. Dự phòng ngân sách nhà nước sử dụng để: a) Chi phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm hoạ, dịch bệnh; nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng, an ninh và các nhiệm vụ cần thiết khác thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách cấp mình mà chưa được dự toán; b) Chi hỗ trợ cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ quy định tại điểm a khoản này, sau khi ngân sách cấp dưới đã sử dụng dự phòng cấp mình để thực hiện nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu.

Bổ sung quy định cho phép hệ thống TAND được sử dựng nguồn thu từ án phí, lệ phí Tòa án và nguồn thu từ các vụ việc để tạo nguồn kinh phí đẩy nhanh tiến độ tái đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, mua sắm, sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn tài sản. của TAND các cấp. Góp phần tạo động lực thúc đẩy và nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác xét xử.

Về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của TAND

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động của Tòa án, tạo lập đầy đủ các điều kiện về cơ chế, chính sách, môi trường pháp lý để hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin hoạt động đồng bộ, thống nhất từ trung ương đến địa phương, đảm bảo an toàn, an ninh thông tin.

Ưu tiên, đảm bảo kinh phí để nâng cao hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin của TAND, xây dựng Tòa án điện tử tiến tới Toa án số.

Bố trí thêm nguồn nhân lực về công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu thực hiện, triển khai các nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin trong toàn hệ thống; hình thành tổ chức bộ máy từ TANDTC đến các TAND cấp tỉnh để vận hành hệ thống công nghệ thông tin; trong đó, tập trung tổ chức lại Trung tâm tin học từ đơn vị cấp phòng thành đơn vị cấp cục, vụ để ngang tầm nhiệm vụ được giao.

- Tiếp tục quy định việc đảm bảo kịp thời ứng dụng công nghệ thông tin là một trong các tiêu chí bắt buộc để đánh giá thành tích thi đua khen thưởng của tập thể, cá nhân.

 

[1] Điều 370, 371 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 325, 326 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 254, 255 Luật Tố tụng hành chính.

[2]  Xem Báo cáo số 109/BC-TANDTC ngày 21/12/2022 về kết quả rà soát văn bản quy phạm pháp luật về Hội thẩm nhân dân.

[3]     Hiện toàn hệ thống Tòa án có 740/1.032 xe theo định mức của toàn hệ thống Tòa án.

[4]     Theo Thông tư 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 của TANDTC quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa Gia đình và Người chưa thành niên.

[5]     Theo Luật Hòa giải ,đối thoại tại Tòa án (Luật số 58/2020/QH14) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021.

HÀ CHI