Bàn về quyền tự mình ra quyết định hoãn chấp hành án phạt tù của Chánh án Tòa án

Trong bài viết này, tác giả bàn về những bất cập đối với quyền tự mình ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù của Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành hình phạt tù. Bởi vì, giữa quy định của BLHS, BLTTHS, Luật Thi hành án hình sự (LTHAHS) và các văn bản hướng dẫn còn có sự bất cập.

Hoãn chấp hành hình phạt tù là một chế định phản ánh chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước ta đối với người bị kết án khi có những điều kiện nhất định, cho phép họ chuyển việc chấp hành án sang một thời điểm khác muộn hơn và đặc biệt, chế định này chỉ dành cho một số đối tượng nhất định, đáp ứng những điều kiện nhất định[1]. Đối tượng đó chỉ bao gồm: Người bị bệnh nặng, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người lao động duy nhất mà nếu bắt người này chấp hành hình phạt thì gia đình họ sẽ gặp khó khăn đặc biệt, đối với người bị kết án về tội ít nghiêm trọng và do nhu cầu công vụ[2]. Đây chế định có ảnh hưởng rất lớn đến giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng đối với một vụ án hình sự, bảo đảm thực hiện trách nhiệm hình sự của người bị kết án trước pháp luật bằng bản án của Tòa án.

Hiện nay, thủ tục, thẩm quyền hoãn chấp hành án phạt tù được quy định tại Điều 24 LTHAHS năm 2019 và chưa có văn bản nào hiện hành hướng dẫn thủ tục này mà vẫn áp dụng tinh thần hướng dẫn tại mục III Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.

Quyền tự mình ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù của Chánh án Tòa án đã ra quyết định theo quy định tại khoản 1 Điều 24 LTHAHS “Đối với người bị kết án phạt tù đang được tại ngoại, Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án có thể tự mình hoặc theo đơn đề nghị của người bị kết án, văn bản đề nghị của Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chấp hành án cư trú, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi người chấp hành án làm việc hoặc cư trú ra quyết định hoãn chấp hành án phạt tù.” Về vấn đề này hiện có hai quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất: Trong quy định pháp luật về thi hành án hình sự, Tòa án có trách nhiệm ra quyết định thi hành án hình sự, còn Cơ quan thi hành án hình sự có trách nhiệm thi hành quyết định thi hành án hình sự. Nếu Chánh án Tòa án vừa có thẩm quyền ra quyết định thi hành án và vừa có thẩm quyền tự mình ra quyết định hoãn chấp hành án phạt tù là không đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của từng chủ thể trong thi hành án hình sự được quy định tại Điều 16, Điều 21 LTHAHS, vô tình Tòa án trở thành “Người vừa đá bóng, vừa thổi còi”, tức là Tòa án vừa ra quyết định thi hành án đối với người bị kết án, vừa thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn trong thi hành án của cơ quan thi hành án hình sự[3].

Quan điểm thứ hai: Chánh án Tòa án có nhiệm vụ, quyền hạn quyết định hoãn chấp hành án phạt tù được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 44 BLTTHS năm 2015. Về thủ tục ban hành quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù được quy định tại khoản 1 Điều 24 LTHAHS. Theo đó, Chánh án Tòa án thực hiện quyền này khi đã ra quyết định thi hành án nếu xét thấy hồ sơ đề nghị hoãn chấp hành án của người bị kết án có đầy đủ các tài liệu, chứng cứ thể hiện người đó đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 67 BLHS và chỉ áp dụng với người chấp hành án đang tại ngoại. Không phải mọi trường hợp Chánh án đều tự mình ra quyết định mà phải tuân theo tinh thần hướng dẫn tại tiểu mục 1.2, mục 1 Phần III Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ năm “thi hành bản án và quyết định của Tòa án” của BLTTHS quy định: “Trường hợp không có đề nghị bằng văn bản của Viện kiểm sát, cơ quan Công an cùng cấp hoặc người bị kết án, thì Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án chỉ tự mình xem xét, quyết định cho người bị kết án được hoãn chấp hành hình phạt tù trong trường hợp người thân thích của người bị kết án (cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em… của người bị kết án) hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án  làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người bị kết án thường trú đề nghị bằng văn bản cho người bị kết án được hoãn chấp hành hình phạt tù”. Theo quy định này thì Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án chỉ tự mình xem xét, quyết định khi có đơn/văn bản đề nghị hoãn chấp hành án và thực hiện theo thủ tục quy định tại tiểu mục 1.3, mục 1 Phần III Nghị quyết số 02/2007 nêu trên.

Tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai bởi các lý do: Theo quy định tại tiểu mục 1.3, mục 1, phần III Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTCo thì: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù, thì cơ quan, tổ chức, cá nhân đó có trách nhiệm lập hồ sơ đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù”. Trên cơ sở hồ sơ đề nghị, trong thời hạn 05 ngày làm việc, Chánh án Tòa án xem xét, quyết định bổ sung tài liệu, ban hành Quyết định hoãn hoặc thông báo không chấp nhận hoãn[4]. Như vậy, nếu người bị kết án có các điều kiện theo quy định tại Điều 67 BLHS thì Chánh án Tòa án chỉ thực hiện việc quyết định chấp nhận hay không chấp nhận hoãn chấp hành án phạt tù mà không tự mình xem xét, tự làm các thủ tục xác minh, tự hoàn thiện hồ sơ thủ tục để ra quyết định hoãn chấp hành án. Cũng bởi lý do đó nên quy định này vẫn tiếp tục được kế thừa tại điểm a khoản 1 Điều 4 của Dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn quan hệ phối hợp trong việc thực hiện trình tự, thủ tục hoãn, miễn chấp hành án phạt tù[5].  

Do đó, để phù hợp với quy định tương ứng của BLHS, LTHAHS hiện hành về quyền tự mình ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù của Chánh án Tòa án đã ban hành Quyết định thi hành án nên cần thiết sớm có các văn bản hướng dẫn, đảm bảo áp dụng thống nhất chế định trong thực tiễn và và cần thiết phải kế thừa các quy định hướng dẫn về thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù được ghi nhận tại mục 1, phần III Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC./.

 

TAND huyện Lộc Ninh, Bình Phước xét xử vụ án trộm cắp tài sản - Ảnh: Nguyễn Khánh

 

 

 

[1] Quy định hoãn chấp hành hình phạt tù là chế định được thể hiện lần đầu tiên ở Điều 69 Bộ luật Hình sự năm 1985[1], sau đó quy định này tiếp tục được quy định tại Điều 231 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988[1], Điều 61 Bộ luật Hình sự năm 1999[1], và được kế thừa tại Điều 67 Bộ luật hình sự năm 2015.

[2] Điều 67 Bộ luật hình sự năm 2015

[3] Trần Thị Thu Thủy, Những bất cập khi hoãn chấp hành hình phạt tù đối với người bị kết án, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, ngày 09/11/2020.

[4] Tiểu mục 1.5, mục 1, phần III Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ năm “thi hành bản án và quyết định của Tòa án” của Bộ luật Tố tụng hình sự

[5] “Điều 4. Thủ tục đề nghị, nhận hoãn chấp hành án phạt tù:

  1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền đề nghị hoãn chấp hành án phạt tù gồm:

  a) Tòa án đã ra quyết định thi hành án;”

 

NGUYỄN HỒNG THẮM (Phòng KTNV và Thi hành án – Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa)