Hòa giải vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm

Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là nguyên tắc cơ bản được bảo đảm thực hiện xuyên suốt trong mọi quá trình, giai đoạn giải quyết vụ án dân sự; pháp luật khuyến khích, tôn trọng ý kiến, quyết định của các bên đương sự về việc định đoạt vụ án.

Pháp luật tố tụng đã giành một chương là Chương XIII quy định Thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử trong BLTTDS 2015, bên cạnh những điều luật trực tiếp, nội dung hòa giải còn nằm ẩn ở nhiều điều luật khác trong các giai đoạn tố tụng. Về mặt nguyên tắc, thủ tục hòa giải là thủ tục bắt buộc phải tiến hành trong thời hạn chuẩn bị xét xử. Tuy nhiên, việc không tiến hành hòa giải và hòa giải không thành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử không làm mất đi quyền tự thỏa thuận, định đoạt của các đương sự. Tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm các bên đương sự vẫn có quyền tự thỏa thuận và Tòa án luôn khuyến khích tạo điều kiện để các bên hòa giải, tự thỏa thuận. Chúng tôi xin phân tích nội dung, trình tự, thủ tục, hậu quả pháp lý của việc các đương sự hòa giải được với nhau tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm theo BLTTDS 2015.

  1. 1.Hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm

Tại phiên tòa sơ thẩm, pháp luật tố tụng không buộc Tòa án phải tiến hành phiên hòa giải theo trình tự, thủ tục quy định tại Chương III; tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào việc pháp luật tố tụng không có quy định trực tiếp về hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm để cho rằng tại phiên tòa sơ thẩm thì hoạt động hòa giải không diễn ra là không chính xác. Bởi mặc dù pháp luật tố tụng không có quy định trực tiếp về việc hòa giải nhưng việc hòa giải vẫn hiện hữu thông qua việc Chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không? (khoản 1 Điều 246 BLTTDS 2015). Việc Toà án hỏi các đương sự có thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thực chất là việc Toà án kiểm tra, xác thực lại xem các đương sự có tự hoà giải được với nhau hay không.

Điểm khác biệt của hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm so với trong thời hạn chuẩn bị xét xử chính là sự chủ động, vai trò của Tòa án đối với việc hòa giải của các đương sự. Hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm được coi như việc các đương sự tự chủ động tìm sự đồng nhất trong quan điểm giải quyết vụ án, trong trường hợp này Tòa án chỉ là bên công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu sự thỏa thuận này không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Vì vậy việc hoà giải này do các đương sự tự thoả thuận, việc thỏa thuận này có thể được thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đến thủ tục bắt đầu phiên tòa. Các đương sự tự mình thương lượng với nhau về các vấn đề của vụ án, tự gặp nhau để giải quyết tranh chấp không phụ thuộc vào thời gian, địa điểm nhất định về trình tự, thủ tục, hoàn toàn không có sự tham gia của Toà án.

Đến phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa kiểm chứng lại sự thỏa thuận của các đương sự, trong trường hợp các đương sự thỏa thuận về việc giải quyết vụ án thì HĐXX ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Việc hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm cần phải lưu ý một số nội dung sau:

* Về thời điểm hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm: Căn cứ theo quy định tại BLTTDS 2015 thì việc hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không do Chủ tọa phiên tòa hỏi và được thực hiện trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa (Điều 246, mục 2, Chương XIV BLTTDS 2015). Sau khi tiến hành khai mạc phiên tòa và thực hiện các thủ tục theo Điều 239 BLTTDS 2015, Chủ tọa phiên tòa hỏi và giải quyết về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu; Chủ tọa phiên tòa tiến hành hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Việc hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không là hoạt động cuối trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa; việc các đương sự không hòa giải được trong giai đoạn này chính là tiền đề cho hoạt động tiếp theo là tranh tụng tại phiên tòa.

Mặc dù BLTTDS 2015 đã quy định rõ việc hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không được thực hiện tại thủ tục bắt đầu phiên tòa, nhưng tại phần III – Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa của Biểu mẫu số 48 Ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán (HĐTP) TANDTC về mẫu Biên bản phiên tòa sơ thẩm là không có nội dung thể hiện việc hỏi này. Tại phần III biểu mẫu số 48, HĐTP TANDTC đã quy định cứng các nội dung trong phần này mà không hề có nội dung mở để người sử dụng có thể bổ sung nội dung như các phần khác trong biểu mẫu. Đây chính là điểm hạn chế trong biểu mẫu số 48 ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 cần được HĐTP TANDTC xem xét sửa đổi.

* Nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm: Các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì chỉ phải chịu 50% mức án phí. Trường hợp các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm thì các đương sự vẫn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như trường hợp xét xử vụ án đó. Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì các bên đương sự vẫn phải chịu án phí như trường hợp xét xử.

* Hình thức và hậu quả pháp lý: Tương tự như trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm thì HĐXX sẽ xem xét và thảo luận tại phòng nghị án; nếu nội dung thỏa thuận của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội thì HĐXX ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án. Quyết định này có hiệu lực thi hành ngay mà không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.

  1. 2.Hòa giải tại phiên tòa phúc thẩm

Tương tự như tại phiên tòa sơ thẩm, khi quá trình tố tụng đến giai đoạn phiên tòa phúc thẩm thì các đương sự vẫn không mất quyền tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên do tính chất của xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị nên việc hòa giải tại phiên tòa phúc thẩm có một số điểm khác biệt cần lưu ý sau:

* Nội dung hòa giải: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án chỉ ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án (kể cả phần án phí); trong trường hợp các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng không thỏa thuận được với nhau về nghĩa vụ chịu án phí thì Tòa án không được ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận mà tiến hành xét xử vụ án theo quy định chung. Tại phiên tòa phúc thẩm, chỉ cần các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án (không thỏa thuận được nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm) và thỏa thuận này không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội thì HĐXX phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và HĐXX sẽ tự mình xác định nghĩa vụ chịu án phí dựa trên nội dung thỏa thuận của các đương sự.

* Hình thức công nhận sự thỏa thuận: Hòa giải trong thời hạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm được ghi nhận dưới hình thức Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm do vụ án đang tồn tại một bản án dân sự sơ thẩm nên HĐXX phúc thẩm không thể ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự được; bởi khi ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận không làm mất hiệu lực của bản án sơ thẩm nên sẽ tồn tại song song 01 bản án sơ thẩm và 01 Quyết định về việc giải quyết cùng một vụ án. Do đó, khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm thì HĐXX sẽ ban hành Bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, có nội dung trong phần quyết định là công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

* Nghĩa vụ chịu án phí: Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm thì nghĩa vụ chịu án phí được xác định:

– Án phí phúc thẩm: Đương sự kháng cáo phải chịu toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm số tiền là 300.000đ.

– Án phí dân sự sơ thẩm: Nếu các đương sự tự thỏa thuận được với nhau thì các đương sự chịu án phí dân sự sơ thẩm theo thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án xác định lại án phí dân sự sơ thẩm theo nội dung thỏa thuận về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm.

Một phiên hòa giải tại Tòa án huyện Châu Thành A, Hậu Giang- Ảnh TL

Ths. NGUYỄN HỮU MINH - Phó Chánh án TAND tỉnh Bắc Ninh