Quy định hoãn phiên tòa hình sự sơ thẩm – Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện

Hoãn phiên tòa được hiểu là việc không tiến hành xét xử vụ án vì một số lý do nhằm đảm bảo việc xét xử được khách quan, công bằng. Việc hoãn phiên tòa chỉ trong một thời gian nhất định, sau khoảng thời gian đó vụ án sẽ được tiến hành xét xử.

1.Căn cứ pháp lý

Điều 297 BLTTHS năm 2015 quy định về hoãn phiên tòa hình sự sơ thẩm (1) theo đó Tòa án phải hoãn phiên tòa khi thuộc một trong các trường hợp sau: Phải thay đổi Kiểm sát viên tại phiên tòa (khoản 2 Điều 52); phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên tòa (khoản 2 Điều 53); không có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết để thay thế hoặc phải thay đổi chủ tọa phiên tòa mà không có Thẩm phán dự khuyết để thay thế theo quy định tại khoản 2 Điều 288 BLTTHS thì phải hoãn phiên tòa (khoản 3 Điều 288); Kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử mà không có kiểm sát viên dự khuyết thay thế (khoản 2 Điều 289); bị cáo vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan (khoản 1 Điều 290); người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa (Điều 291); bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ vắng mặt thì tùy từng trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử (khoản 1 Điều 293); người giám định, người định giá tài sản vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử (khoản 2 Điều 294); người phiên dịch, người dịch thuật vắng mặt mà không có người khác thay thế thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 295). Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa. Cần tiến hành giám định bổ sung, giám định lại. Cần định giá tài sản, định giá lại tài sản.

 Trường hợp hoãn phiên thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu. Hoãn phiên tòa hình sự sơ thẩm có thể phát sinh vào thời điểm trước khi mở phiên tòa hoặc thời điểm bắt đầu phiên tòa. Thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không được quá 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.

Thẩm quyền ra quyết định hoãn phiên tòa thuộc về Hội đồng xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử ký quyết định hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 còn quy định trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa vắng mặt hoặc bị thay đổi thì Chánh án Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa.

Quyết định hoãn phiên tòa hình sự sơ thẩm phải được thông báo ngay cho những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa; gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên tòa trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định.

Quyết định hoãn phiên tòa có các nội dung chính sau: Ngày, tháng năm ra quyết định; tên Tòa án và họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; Họ tên Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa; Vụ án được đưa ra xét xử; Lý do của việc hoãn phiên tòa; Thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa.

2.Những bất cập, vướng mắc quy định về hoãn phiên tòa hình sự sơ thẩm

Quy định tại Điều 297 BLTTHS năm 2015 về hoãn phiên tòa hình sự sơ thẩm đã rõ ràng, cụ thể, dự lường các tình huống, các trường hợp có thể phát sinh trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa để Tòa án (Hội đồng xét xử) ra quyết định hoãn phiên tòa, tuy nhiên trên thực tế quy định này còn có những bất cập, vướng mắc cụ thể như sau:

Thứ nhất, BLTTHS năm 2015 quy định bị cáo có quyền được nhận bản Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử, cụ thể khoản 2 Điều 240 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra Cáo trạng, Viện kiểm sát phải giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can”; khoản 1 Điều 286 BLTTHS năm 2015 quy định: “Quyết định đưa vụ án ra xét xử được giao cho bị cáo hoặc người đại diện của họ, gửi cho người bào chữa, bị hại, đương sự chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa”. Tuy nhiên trong thực tế nhiều trường hợp bị cáo không được giao Cáo trạng, nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc nhận được Cáo trạng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng không đảm bảo thời hạn luật định và khi bị cáo yêu cầu hoãn phiên tòa để đảm bảo quyền của bị cáo thì Điều 297 BLTTHS năm 2015 chưa có quy định cụ thể về nội dung này.

Thứ hai, khoản 2 Điều 53 BLTTHS năm 2015 quy định: “Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án Tòa án thì do Chánh án Tòa án trên một cấp quyết định”, tuy nhiên trường hợp Chánh án Tòa án là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa do trở ngại khách quan (bị ốm đau, sự cố bất ngờ) thì ai là người ký quyết định hoãn phiên tòa trước khi mở phiên tòa. Trường hợp này Phó Chánh án có thể ký quyết định hoãn phiên tòa thay Chánh án được không, bởi vì lúc này Chánh án không thể ký quyết định hoãn phiên tòa được và trường hợp này luật chưa có quy định.

Thứ ba, Điều 297 BLTTHS năm 2015 chưa có quy định trường hợp hoãn phiên tòa do sự kiện bất khả kháng hoặc lý do trở ngại khách quan mà không thể tiến hành mở phiên tòa được như đại dịch Covid- 19, thiên tai bão, lũ, hỏa hoạn.

Ví dụ: Do tình hình dịch bệnh Covid 19 diễn biến phức tạp, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ các địa phương có dịch bệnh Covid -19 phải thực hiện cách ly, giản cách xã hội để phòng chống dịch bệnh; như vậy để đảm bảo phòng chống dịch bệnh Covid- 19 các địa phương có dịch bệnh không thể mở phiên tòa xét xử vụ án được mà phải gia hạn, kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, các vụ án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử phải hoãn phiên tòa, tuy nhiên căn cứ để hoãn phiên tòa do dịch bệnh Covid -19 diễn biến phức tạp chưa được nhà làm luật dự liệu để Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa hoặc trong các trường hợp như thiên tai bão, lũ, hỏa hoạn là những sự kiện, lý do bất khả kháng Tòa án không thể mở phiên tòa được mặc dù đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử, trường hợp này Tòa án phải ra quyết định hoãn phiên tòa và căn cứ để hoãn phiên tòa trong các trường hợp này chưa được quy định.

Thứ tư, quá trình giải quyết vụ án, có những trường hợp mặc dù đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng trong thời gian chuẩn bị mở phiên tòa có bị cáo hoặc người tham gia tố tụng gửi yêu cầu đến Tòa án xin hoãn phiên tòa vì lý do sức khỏe hoặc vì lý do bất khả kháng không thể tham gia tố tụng tại phiên tòa được. Nhận được yêu cầu của bị cáo hoặc của những người tham gia tố tụng như bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bào chữa…-Tòa án tiến hành xác minh và thấy rằng lý do sức khỏe hoặc lý do bất khả kháng nêu ra là đúng sự thật và chính đáng. Theo quy định hiện hành thì việc vắng mặt này được xác định là căn cứ để hoãn phiên tòa. Tuy nhiên Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không thể ra quyết định hoãn phiên tòa ngay được vì luật không cho phép. Như vậy, trong trường hợp này mặc dù biết trước phiên tòa sẽ phải hoãn nhưng Hội đồng xét xử vẫn phải đợi đến ngày mở phiên tòa mới được ra quyết định hoãn phiên tòa, điều này gây lãng phí chi phí tố tụng, khó khăn đối với những người tham gia phiên tòa ở xa, điều kiện đi lại khó khăn, tốn kém.  

3. Một số đề xuất, kiến nghị

Qua nghiên cứu quy định về hoãn phiên tòa, để hoàn thiện hơn quy định về hoãn phiên tòa hình sự sơ thẩm, tác giả có một số đề xuất, kiến nghị như sau:

Thứ nhất, Cơ quan có thẩm quyền cần bổ sung căn cứ hoãn phiên tòa tại khoản 1 Điều 297 BLTTHS năm 2015 như sau:

“1. Tòa án hoãn phiên tòa khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Có một trong những căn cứ quy định tại các điều 52, 53, 288, 289, 290, 291, 292, 293, 294 và 295 của Bộ luật này;

b) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa;

c) Cần tiến hành giám định bổ sung, giám định lại;

d) Cần định giá tài sản, định giá lại tài sản.

đ) Do sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà không thể tiến hành mở phiên tòa được.

e) Bị cáo chưa được giao nhận bản Cáo trạng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định của Bộ luật này và bị cáo có yêu cầu hoãn phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải hoãn hoãn phiên tòa”

Thứ hai, Cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn trường hợp Chánh án Tòa án là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa do trở ngại khách quan thì ai là người ký quyết định hoãn phiên tòa trước khi mở phiên tòa.

Thứ ba, Cơ quan có thẩm quyền cần bổ sung quy định trường hợp bị cáo hoặc người tham gia tố tụng gửi yêu cầu đến Tòa án xin hoãn phiên tòa vì lý do sức khỏe hoặc vì lý do bất khả kháng. Trường hợp này Chánh án Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa trước khi mở phiên tòa để tránh lãng phí chi phí tố tụng, khó khăn đối với những người tham gia tố tụng ở xa, điều kiện đi lại khó khăn. Theo đó bổ sung khoản 4 Điều 297 BLTTHS năm 2015 “Quyết định hoãn phiên tòa phải được chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử ký tên. Trường hợp chủ tọa phiên tòa vắng mặt hoặc bị thay đổi thì Chánh án Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa. Trường hợp bị cáo hoặc người tham gia tố tụng gửi yêu cầu đến Tòa án xin hoãn phiên tòa vì lý do sức khỏe hoặc vì lý do bất khả kháng thì Chánh án Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa”.

Thứ tư, Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành kèm theo về biểu mẫu quyết định hoãn phiên tòa trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa vắng mặt hoặc bị thay đổi thì Chánh án ra quyết định hoãn phiên tòa phần căn cứ các Điều 44, 53, 297, 299, 326 BLTTHS và có căn cứ văn bản ngày tháng năm của Hội đồng xét xử sơ thẩm (phúc thẩm) là phù hợp, tuy nhiên nếu bổ sung căn cứ hoãn phiên tòa “Do sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà không thể tiến hành mở phiên tòa được” và “Trường hợp bị cáo hoặc người tham gia tố tụng gửi yêu cầu đến Tòa án xin hoãn phiên tòa vì lý do sức khỏe hoặc vì lý do bất khả kháng” mà Chánh án Tòa án ký quyết định hoãn phiên tòa trước khi mở phiên tòa hình sự sơ thẩm, tác giả kiến nghị bổ sung thêm biểu mẫu về quyết định hoãn phiên tòa và phần căn cứ tùy từng trường hợp để căn cứ vào các Điều 44, 290, 291, 292, 293, 294, 295, 297 BLTTHS và bỏ phần căn cứ văn bản của Hội đồng xét xử sơ thẩm sẽ phù hợp hơn trên thực tế vì hoãn phiên tòa trước khi mở phiên tòa trong các trường hợp nêu trên không có căn cứ vào văn bản của Hội đồng xét xử sơ thẩm.

Tóm lại: BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định về hoãn phiên tòa hình sự sơ thẩm rõ ràng, cụ thể hơn so với BLTTHS năm 2003 để giải quyết những tình huống có thể xãy ra trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa mà Tòa án (Hội đồng xét xử) xét thấy cần thiết phải hoãn phiên tòa để đảm bảo việc xét xử được khách quan, công bằng. Tuy nhiên, trên thực tế phát sinh những trường hợp Tòa án không thể tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được cần phải hoãn phiên tòa, những trường hợp này Điều 297 BLTTHS chưa có quy định, vì vậy cần thiết phải bổ sung thêm những quy định, căn cứ hoãn phiên tòa, biểu mẫu hoãn phiên tòa kèm theo cho những trường hợp này để hoàn thiện hơn quy định về hoãn phiên tòa hình sự sơ thẩm, qua đó đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, đảm bảo xét xử vụ án được khách quan, công bằng.

Điều 297 BLTTHS năm 2015, quy định về Hoãn phiên tòa như sau: (1)

“1. Tòa án hoãn phiên tòa khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Có một trong những căn cứ quy định tại các điều 52, 53, 288, 289, 290, 291, 292, 293, 294 và 295 của Bộ luật này;

b) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa;

c) Cần tiến hành giám định bổ sung, giám định lại;

d) Cần định giá tài sản, định giá lại tài sản.

Trường hợp hoãn phiên tòa thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu.

2. Thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không được quá 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.

3. Quyết định hoãn phiên tòa có các nội dung chính:

a) Ngày, tháng, năm ra quyết định;

b) Tên Tòa án và họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án;

c) Họ tên Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa;

d) Vụ án được đưa ra xét xử;

đ) Lý do của việc hoãn phiên tòa;

e) Thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa.

4. Quyết định hoãn phiên tòa phải được chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử ký tên. Trường hợp chủ tọa phiên tòa vắng mặt hoặc bị thay đổi thì Chánh án Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa.

Quyết định hoãn phiên tòa phải được thông báo ngay cho những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa; gửi cho Viện kiêm sát cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên tòa trong thời hạn 2 ngày kể từ ngày ra quyết định”.

 

 

Thạc sĩ LÊ ĐÌNH NGHĨA Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5