Thực trạng xét xử tội phạm về môi trường và sự cần thiết thành lập Tòa chuyên trách về môi trường

Thực trạng xét xử các tội phạm về môi trường hiện nay cho thấy việc thành lập Tòa chuyên trách về môi trường trở nên cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả xét xử và đáp ứng sự đòi hỏi, yêu cầu của thực tiễn cũng như đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Thực trạng xét xử trong thời gian qua cho thấy vi phạm pháp luật nghiêm trọng của các cá nhân, pháp nhân trong lĩnh vực liên quan đến môi trường; các tranh chấp liên quan đến môi trường ngày càng nhiều và chưa được giải quyết nhanh chóng, hiệu quả; tội phạm về môi trường không ngừng gia tăng gây ảnh hưởng lớn tới môi trường sinh thái… Hoạt động tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường diễn ra trong rất nhiều các lĩnh vực như lĩnh vực công nghiệp, xây dựng cơ bản; lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, đa dạng sinh học; lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và làng nghề…

1. Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự và các tranh chấp về môi trường tại Việt Nam

Các tội phạm về môi trường được hiểu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quan hệ xã hội liên quan đến các hoạt động bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn tài nguyên. Các tội phạm về môi trường lần đầu tiên được quy định trong BLHS năm 1985 với một tội danh được ghi nhận tại Điều 195 là Tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng và được xếp trong nhóm các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính. Trong BLHS năm 1999, các hành vi phạm tội trong lĩnh vực môi trường đã được xây dựng thành một chương độc lập là chương Các tội phạm về môi trường, bao gồm 11 tội danh (từ Điều 182 đến Điều 191a). Mặc dù có rất nhiều thay đổi tích cực trong lần sửa đổi năm 2009 nhưng BLHS năm 1999 vẫn chưa phát huy được tính ứng dụng trong thực tiễn, chưa giải quyết được triệt để các vi phạm trong lĩnh vực môi trường, đồng thời thiếu căn cứ pháp lý cần thiết để xử lý hình sự với những hành vi có dấu hiệu tội phạm. Bên cạnh đó, các quy định này cũng chưa đáp ứng được đòi hỏi mới của thực tiễn cũng như những yêu cầu hội nhập khi Việt Nam đã ký kết và gia nhập nhiều Công ước quốc tế trong lĩnh vực này.

Thực tế xét xử các tội phạm môi trường trong những năm gần đây thường là các tội Gây ô nhiễm môi trường, tội Đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam, tội Hủy hoại nguồn lợi thủy sản, tội Hủy hoại rừng, tội Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm và tội Vi phạm quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên. Năm 2020, toàn ngành Tòa án đã xét xử 362 vụ án /590 bị cáo phạm các tội phạm về môi trường và cũng trong 6 loại tội danh nêu trên. So với thực trạng tình hình vi phạm pháp luật về môi trường ngày càng gia tăng thì công tác đấu tranh, xét xử các loại tội phạm này vẫn còn hạn chế.

Có thể thấy, thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự về tội phạm môi trường còn có mâu thuẫn nhất là trong việc định giá đối với động vật nguy cấp, quý, hiếm. Tại Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 7/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự, quy định việc định giá tài sản là hàng cấm phải dựa trên ít nhất một trong những căn cứ sau: Giá thị trường của tài sản; Giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, quyết định; Giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp; Giá trong tài liệu, hồ sơ kèm theo tài sản cần định giá (nếu có); Các căn cứ khác về giá hoặc giá trị của tài sản cần định giá.

 Tuy nhiên, mỗi địa phương hoặc khu vực lại có giá khác nhau, nên việc áp dụng giá không thống nhất, không chính xác dẫn tới việc áp dụng pháp luật không công bằng. Cùng về một hành vi, việc áp dụng giá không thống nhất dẫn đến cùng một loài, một cá thể động vật nguy cấp, quý, hiếm thì ở địa phương này người vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn ở địa phương khác thì có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và dẫn tới việc giải quyết vụ án bị kéo dài.

Đối với các tội phạm về môi trường theo BLHS năm 2015, không có tội nào được phân loại là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (vì không có tội danh nào có khung hình phạt tù cao đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình), trong khi hậu quả của tội phạm này gây ra cho môi trường trong thực tế là rất lớn.

Tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp luật môi trường mà cá nhân, pháp nhân vi phạm có thể bị xử lý bằng chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự. Trong trường hợp có tranh chấp liên quan về môi trường thì giải quyết theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự hoặc tố tụng hành chính tại Tòa án. Một trong những giải pháp để hạn chế, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường là người dân có thể khởi kiện tại Tòa án nơi có các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm, điển hình như vụ xả thải gây ô nhiễm kéo dài và nghiêm trọng trước đây của Công ty Vedan (tỉnh Đồng Nai), vụ xả thải không qua xử lý của công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh… Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về môi trường bị kéo dài do việc chứng minh, việc giám định chuyên biệt về các thiệt hại mà người bị thiệt hại đã và đang phải gánh chịu do ô nhiễm môi trường gây ra ảnh hưởng tới đời sống, tính mạng và sức khỏe còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, việc thành lập Tòa án chuyên trách về môi trường trực thuộc tòa án cấp tỉnh ở những nơi có khu công nghiệp và các Thẩm phán chuyên trách về môi trường nhằm giải quyết hiệu quả và triệt để các sự vụ ô nhiễm môi trường trên diện rộng, có thể gây thiệt hại cho nhiều hộ dân sống ở các địa phương khác nhau là rất cần thiết.

2. Nhu cầu thực tiễn của việc thành lập Tòa chuyên trách về môi trường

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu “việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp tòa án, từng khu vực”. Tại Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW đã chỉ đạo tiếp tục thực hiện những nội dung về cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW. Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì cơ cấu tổ chức của TANDCC, TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có các tòa chuyên trách là Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên. Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TADTC.

Trong hệ thống tư pháp Việt Nam hiện nay, chưa có một cơ quan chuyên biệt để giải quyết các vụ việc liên quan đến lĩnh vực môi trường, tuy rằng đây là một lĩnh vực đang được xã hội rất quan tâm. Thời điểm này, việc thành lập Tòa án chuyên trách về môi trường là cần thiết, cấp bách nhằm triển khai có hiệu quả các chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi trường, đồng thời, là cơ hội để Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường. Hiện nay, có khoảng 300 Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, Việt Nam đã tham gia một số Công ước quốc tế về môi trường như Công ước liên quan đến Bảo vệ các di sản văn hóa và tự nhiên, Công ước về buôn bán quốc tế về các giống loài động thực vật có nguy cơ bị đe dọa, Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (Cites)…

Việc thành lập Tòa chuyên trách về môi trường không chỉ góp phần khắc phục những trở ngại trước mắt của công tác bảo vệ môi trường, xử lý nghiêm, dứt điểm các hành vi gây ô nhiễm môi trường, giải quyết triệt để các tranh chấp về môi trường mà còn phù hợp với mô hình tổ chức tòa án của nhiều quốc gia trên thế giới.

Việt Nam đã và đang sử dụng nhiều công cụ khác nhau trong việc bảo vệ môi trường, trong đó phải kể đến công cụ pháp luật và củng cố, tăng cường các cơ quan thực thi, bảo vệ pháp luật và hoàn thiện các quy phạm pháp luật trong Luật Bảo vệ môi trường và BLHS theo kịp sự phát triển của thực tế và hội nhập quốc tế. Để giải quyết có hiệu quả những vấn đề trên, cần có sự phối hợp chặt chẽ của Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các cơ quan khác có liên quan. Các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan thực hiện quyền hành pháp là cơ sở để Tòa án xem xét, quyết định đối với các hành vi vi phạm pháp luật và tranh chấp trong lĩnh vực môi trường.

Bởi lẽ, các vụ án về môi trường với nhiều tính chất đặc thù, tranh chấp về môi trường có thể phát sinh ngay từ khi có xâm hại, thời điểm xác định tranh chấp môi trường nảy sinh thường sớm hơn so với thời điểm xác định nảy sinh các tranh chấp khác. Mặt khác, giá trị thiệt hại trong các vụ việc về môi trường thường rất lớn; các lợi ích bị xâm hại thường khó xác định; thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường, suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra rất khó định lượng. Các lợi ích này thường bị xâm hại đồng thời trên diện rộng, kéo dài; các tranh chấp về môi trường không chỉ liên quan đến lợi ích của các chủ thể mà còn liên quan đến lợi ích chung của toàn xã hội, ngoài thiệt hại trực tiếp còn có các thiệt hại gián tiếp, lâu dài.

Do đó, khi giải quyết các vụ án về môi trường, khi cần giám định thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường, Tòa án cần có sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan chuyên môn để việc giải quyết vụ án được đúng thời hạn và chính xác. Sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp luôn là một nhân tố quan trọng đảm bảo cho pháp luật về môi trường được tôn trọng và thực hiện một cách có hiệu quả. Sự đổi mới hoạt động và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo vệ môi trường như các cơ quan thuộc Bộ Tài nguyên Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và TAND các cấp cũng đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án môi trường được nhanh chóng, kịp thời.

 3. Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới đã thành lập Tòa chuyên trách về môi trường

Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã thành lập Tòa chuyên trách về môi trường như Ấn Độ, Mỹ, Úc, Nam Phi, New Zealand, Trung Quốc, Thái Lan… Qua thực tiễn ở các quốc gia trên, so với Tòa án thông thường, việc xét xử các vụ án, các tranh chấp môi trường tại Tòa án môi trường với sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực này đem lại hiệu quả cao hơn do tính chuyên môn hóa cao. Điển hình, ở Trung Quốc, ban đầu thành lập Tòa án chuyên về môi trường tại tỉnh Phúc Kiến, đây là Tòa án đầu tiên chuyên trách xử lý các vụ án về môi trường, trực thuộc TAND tỉnh và có 12 chuyên gia thuộc các lĩnh vực môi trường, nông nghiệp, biển và khai khoáng với vai trò cố vấn kỹ thuật. Các chuyên gia này sẽ tham dự phiên tòa để tư vấn về chuyên môn và trợ giúp Hội đồng xét xử giải thích rõ những vấn đề liên quan đến lĩnh vực xét xử. Sau đó, TANDTC Trung Quốc đã thành lập Tòa chuyên trách về môi trường tại các tỉnh khác trên cả nước.

Tòa án môi trường tại các quốc gia nói chung và tại Trung Quốc nói riêng đã thể hiện nhiều tính ưu việt và hoạt động có hiệu quả, thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, Tòa án môi trường có đội ngũ Thẩm phán nhất định, có chuyên môn, chịu trách nhiệm xét xử tất cả các vụ án liên quan đến môi trường trong thẩm quyền của mình. Những Thẩm phán này sẽ được tham vấn bởi đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực liên quan đến các vụ việc phức tạp và đòi hỏi chuyên môn về môi trường. Từ đó, giúp việc xét xử của Tòa án có hiệu quả, chuyên nghiệp và đảm bảo công bằng hơn.

Thứ hai, Tòa án môi trường được trao thẩm quyền và nhiệm vụ hoàn thiện, khắc phục những vướng mắc của thủ tục hành chính về giải quyết tranh chấp môi trường do pháp luật quy định.

Thứ ba, Tòa án môi trường có chức năng ban hành quy định mở rộng thẩm quyền cho các tổ chức phi chính phủ, Viện kiểm sát, Cục Bảo vệ môi trường và các cơ quan chính phủ có liên quan khác, thay mặt lợi ích cộng đồng đưa ra xem xét các vụ án dân sự và hành chính.

Thứ tư, về phạm vi thẩm quyền, Tòa án môi trường áp dụng mô hình “ba trong một” để tích hợp ba loại án liên quan đến môi trường làm giảm ranh giới giữa các vụ án dân sự, hình sự và hành chính.

KẾT LUẬN

Từ cơ sở lý luận, thực tiễn xét xử và kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới thì việc thành lập một Tòa án chuyên trách về môi trường tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh là rất cần thiết. Bước đầu, cần thành lập Tòa án chuyên trách về môi trường trực thuộc TAND cấp tỉnh ở những nơi có khu công nghiệp và các Thẩm phán chuyên trách về môi trường nhằm giải quyết hiệu quả và triệt để các tội phạm về môi trường và các vụ ô nhiễm môi trường trên diện rộng, với những lý do sau:

Thứ nhất, việc thành lập Tòa môi trường trong tình hình hiện nay là cần thiết và phù hợp với chủ trương của Đảng, quan điểm của Nhà nước về bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc tuân thủ các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường đã ký kết.

Thứ hai, việc thành lập Tòa môi trường sẽ giúp việc giải quyết các vụ án hình sự và các vụ việc tranh chấp liên quan đến môi trường được nhanh chóng; tạo tiền đề phân hóa, tập trung chuyên môn nhiệm vụ đối với các Thẩm phán, tổ chức giám định…

Thứ ba, bổ sung những quy định tạo sự liên thông giữa việc áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp xử lý hình sự với việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại tại các Tòa chuyên trách.

Về thẩm quyền, nên xây dựng Tòa môi trường có thẩm quyền giải quyết các vụ việc như sau:

+ Các vụ án hình sự mà các tội phạm về môi trường quy định tại Chương XIX Bộ luật Hình sự năm 2015 (từ Điều 235 - Điều 246);

+ Các vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự liên quan đến môi trường;

+ Các vụ án hành chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính liên quan đến lĩnh vực môi trường.

 

Tòa án nhân dân huyện Hiệp Đức, Quảng Nam xét xử vụ án Hủy hoại rừng - Ảnh: Đào Bội Nhân

         

NGUYỄN THỊ THU HIỀN (Chánh tòa Tòa gia đình và Người chưa thành niên TAND tỉnh Hải Dương) - ThS. PHÙNG THẮNG (Chánh án TAND Tp Hải Dương, tỉnh Hải Dương)